Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ hành Sơn, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐXX-ST ngày 06 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim C. Sinh năm: 1987

Trú tại: Tổ 7A, phường T, quận L, TP. Đà Nẵng- Có mặt.

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc N. Sinh năm: 1986

Trú tại: Tổ 28, phường Q, quận N, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/3/2018, bản trình bày và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Kim C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị Ngọc N kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, quận L, TP. Đà Nẵng, hôn nhân tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng ông sống tại tổ 7 phường T, quận L, TP. Đà Nẵng. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2013, tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn về kinh tế cũng như hôn nhân, đầu năm 2014 ông được công ty chuyển đi làm xa, bà N đã chuyển về nhà mẹ đẻ ở và năm 2016 bà N đã đưa con lên cho ông nuôi và cả hai sống riêng từ đó cho đến nay và không còn tình cảm gì với nhau nữa.

Do đó, ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị Ngọc N.

- Về quan hệ con chung: Ông xác nhận, vợ chồng có 01 người con chung tên Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 28/4/2012. Ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Ông xác nhận không có.

- Về nợ chung: Ông xác nhận không có nợ chung.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc N trình bày: Về quan hệ hôn nhân bà xác nhận với ông C về thời gian kết hôn và thời điểm chung sống. Sau khi cưới vợ chồng về sống tại tổ 7 phường T, quận L, TP. Đà Nẵng và đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế khó khăn, ông C đi làm xa nên bà đã đưa con về nhà mẹ đẻ ở Q ở, đến năm 2017 bà đưa con về cho ông C nuôi từ đó cho đến nay, hiện nay bà và ông C sống ly thân.

Nay ông Nguyễn Kim C có đơn gửi Tòa án xin ly hôn thì bà không đồng ý ly hôn vì con còn nhỏ.

Về quan hệ con chung: Bà xác nhận vợ chồng có 01 người con chung, tên Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 28/4/2012. Nếu ly hôn, bà có nguyện vọng được nuôi con và yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Bà xác nhận không có.

Về nợ chung: Bà xác nhận không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn phát biểu ý kiến về việc Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời những người tham gia tố tụng cũng đã chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc N đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56; 58 Luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ các Điều 35; Điều 147; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn và nuôi con chung của ông Nguyễn Kim C đối với bà Nguyễn Thị Ngọc N.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Kim C được ly hôn với bà Nguyễn Thị Ngọc N.

Về con chung: Giao con Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 28/4/2012 cho ông Nguyễn Kim C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Kim C nộp tại Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng và Tòa án đã thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 28; Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc N vắng mặt không có lý do. Xét thấy trong qúa trình giải quyết vụ án, tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn đầy đủ. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Kim C và bà Nguyễn Thị Ngọc N kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Đây là đôi hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống với nhau đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo khai nhận của ông C và bà N thì nguyên nhân mâu thuẫn là về kinh tế cũng như hôn nhân nên đầu năm 2014 khi ông C được công ty chuyển đi làm xa, bà N đã chuyển về mẹ đẻ ở và năm 2017 bà N đã đưa con lên cho ông nuôi và cả hai sống riêng từ đó cho đến nay.

Qua quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Quan hệ hôn nhân giữa ông C và bà N tồn tại nhưng không thực sự hạnh phúc, sau thời gian chung sống với nhau đến năm 2013 cả hai vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, giữa họ chỉ có trên danh nghĩa vợ chồng, đã từ lâu không còn trách nhiệm gì với nhau, cả hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay ông C và con sống ở quận Cẩm Lệ còn bà N về sống cùng cha mẹ tại phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn.

Tại phiên tòa, ông C C quyết xin được ly hôn bà N, còn bà N vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà N theo quy định của pháp luật.

Việc bà N không đồng ý ly hôn nhưng bản thân cũng không đưa ra được biện pháp gì nhằm khắc phục được sự mâu thuẫn để có sức thuyết phục, níu kéo ông C trở lại hàn gắn hạnh phúc gia đình để trở về sống đoàn tụ. Vì vậy, Hội đồng xét xử cũng không có cơ sở để bảo vệ cho bà N được.

Qua điều, xác minh tại địa phương cho thấy bà N về nhà mẹ đẻ là Lê Thị C sinh sống nhưng không dăng ký hộ khẩu thường trú. Ông Nguyễn Kim C không sống cùng bà Nguyễn Thị Ngọc N tại địa phương nên mâu thuẫn vợ chông không nắm rõ, còn con gái bà N thì không sống cùng bà N.

Hội đồng xét xử xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như như đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện của N đơn đối với bị đơn là có căn cứ.

[3] Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa ông Nguyễn Kim C và bà Nguyễn Thị Ngọc N thực sự đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận cho ông Nguyễn Kim C được ly hôn bà Nguyễn Thị Ngọc N để giải phóng cho nhau là hoàn toàn phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Vợ chồng ông C và bà N có 01 con chung Nguyễn Thị Phương Uyên, sinh ngày 28/4/2012. Ly hôn, ông N có nguyện vọng xin được nuôi dưỡng con và không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi chung. Còn bà N có nguyện vọng được nuôi con và yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.

Xét việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của đứa trẻ. Ở đây cháu Nguyễn Thị Phương U hiện còn nhỏ đang ở cùng với ông C nên cuộc sống của cháu đã ổn định gắn bó với ông C từ trước đến nay, để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất, tinh thần cũng như việc chăm sóc của cha đối với con. Xuất phát từ quyền lợi mọi mặt của cháu Phương U, Hội đồng xét xử xét cần giao cháu Phương U cho ông C được trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Tại phiên tòa ông C không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

- Về tài sản chung: Ông C xác nhận không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

- Về nợ chung: Ông C xác định không có nợ chung nên không xem xét.

[4] Án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000 đồng, ông Nguyễn Kim C phải chịu.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận đơn kiện xin ly hôn của ông Nguyễn Kim C đối với bà Nguyễn Thị Ngọc N.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Kim C được ly hôn với bà Nguyễn Thị Ngọc N.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 28/4/2012 cho ông Nguyễn Kim C được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Bà Nguyễn Thị Ngọc N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con, các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đề cập đến.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000 đồng, ông Nguyễn Kim C phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0001551 ngày 22/3/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:72/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;