TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 72/2017/HSPT NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2017/HSPT ngày 22 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo Trần Thị Ng do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Bị cáo có kháng cáo: Trần Thị Ng - sinh năm 1954.
Nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện VT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; con ông: Trần Văn L và bà Phạm Thị L (đều đã chết); có chồng là ông Phạm Xuân B, sinh năm 1950 và 04 con, con lớn sinh năm 1972, con nhỏ sinh năm 1980; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
1. Bị cáo Trần Văn M - sinh năm 1987
Nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện VT, tỉnh Thái Bình. (được trích xuất có mặt tại phiên tòa).
2. Bị cáo Trần Văn N - sinh năm 1977
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện VT, tỉnh Thái Bình.
Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:
- Người làm chứng: Anh Phạm Ngọc B, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện VT, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
Trong vụ án còn có 01 người bị hại là anh Đỗ Khắc Đ không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 18/02/2017, Trần Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29H1 - 077.53 chở Trần Văn M đi viếng đám ma, khi đến thôn T xã D huyện VT tỉnh Thái Bình, thì Minh phát hiện thấy nhà anh Đỗ Khắc Đ cổng và cửa nhà không khóa, không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định vào nhà để trộm cắp tài sản. M bảo N dừng xe lại, nói “Anh ở đây để em vào nhà xem có gì lấy không”. N hiểu ý đứng bên ngoài canh coi, cảnh giới. M mở cổng đi thẳng vào trong nhà, đến chỗ đặt chiếc ti vi Sony 32 inch màn hình phẳng để trên tủ gỗ ở giữa phòng khách, M rút giắc cắm điện ra khỏi ti vi rồi bê ti vi ra nói với N đưa chiếc áo khoác ra để phủ lên chiếc ti vi rồi ngồi lên xe, hai tay ôm ti vi. Sau đó N điều khiển xe theo hướng dẫn của M đến nhà Trần Thị Ng ở thôn xã V huyện VT tỉnh Thái Bình. Tại đây M gạ bán chiếc ti vi cho Trần Thị Ng, Ng hỏi về nguồn gốc chiếc ti vi thì M nói “Chiếc ti vi này cháu nhảy ở xa, không phải làng mình đâu nên bác cứ yên tâm”. Ng hiểu là chiếc ti vi do M trộm cắp mà có, nhưng vẫn mua chiếc ti vi này với giá 1.000.000 đồng. M nhận tiền và đưa cho N 100.000 đồng, số còn lại M và N đã tiêu xài chung hết. Anh Đỗ Khắc Đ đã trình báo cơ quan Công an, quá trình điều tra cơ quan điều tra đã quản lý được chiếc ti vi của anh Đ tại nhà gia đình Trần Thị Ng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 09/KLHĐ ngày 27/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vũ Thư kết luận: “01 ti vi màn hình phẳng màu đen nhãn hiệu Sony 32 inh đã qua sử dụng, giá trị đến thời điểm định giá là 2.800.000 đồng”. Sau đó cơ quan điều tra đã trả lại chiếc ti vi cho anh Đỗ Khắc Đ.
Tại bản án số 45/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư đã quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn M, Trần Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Trần Thị Ng phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn M 02 năm 06 tháng tù.
Áp dụng điều 51 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt 05 năm 06 tháng tù của bản án số 06/2017/HSST ngày 19/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, buộc bị cáo Trần Văn M phải chịu hình phạt chung của 02 bản án là 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2017.
- Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn N 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 250, điểm h,p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Thị Ng 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 18 tháng 7 năm 2017, bị cáo Trần Thị Ng kháng cáo phần hình phạt của bản án sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo Trần Thị Ng vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo khai báo thành khẩn hành vi phạm tội và tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử cho hưởng án treo để yên tâm cải tạo, tu dưỡng bản thân sớm trở thành người có ích cho xã hội và gia đình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo kháng cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của bị cáo Ng đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248, điểm đ khoản 1 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Ng, giữ nguyên mức hình phạt tù của án sơ thẩm chuyển biện pháp chấp hành hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo.
Căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1]. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Trần Thị Ng làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thị Ng vẫn thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung án sơ thẩm đã nêu. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hôm nay cùng với toàn bộ chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Trần Thị Ng dù không có hứa hẹn trước nhưng đều biết chiếc Tivi do Trần Văn M và Trần Văn N bán cho là tài sản do M và N trộm cắp mà có, thấy giá rẻ nên đã mua để sử dụng với giá 1.000.000 đồng (chiếc Tivi trị giá 2.800.000 đồng). Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Ng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trần Thị Ng thì thấy bị cáo mua chiếc Tivi trị giá 2.800.000 đồng do các bị cáo M và N trộm cắp của gia đình anh Đỗ Khắc Đ bán cho để sử dụng. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Ng mức án 06 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa áp dụng hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Ng. Xét thấy, tài sản mà bị cáo Ng tiêu thụ giá trị 2.800.000 đồng, tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn - quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Như vậy, bị cáo Ng được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bị cáo Ng có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, ngoài hành vi phạm tội lần này bị cáo không có vi phạm pháp luật nào khác, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo cũng đã cao tuổi. Xét thấy, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc để bị cáo cải tạo ngoài xã hội không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ng, sửa án sơ thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo và sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội và gia đình.
[4]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Ng. Sửa bản án sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình về biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo Trần Thị Ng.
Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị Ng 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/9/2017.
Giao bị cáo Trần Thị Ng cho Uỷ ban nhân dân xã V, huyện VT, tỉnh TháiBình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Bị cáo Trần Thị Ng không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 12/9/2017./
Bản án 72/2017/HSPT ngày 12/09/2017 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 72/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về