TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 715/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:691/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 707/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 đối với:
- Các bị cáo:
1. Trịnh Văn H (tên gọi khác: H đen), sinh năm 1987 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: K, khu phố 3, phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trinh Văn V và bà Võ Thị Ph; bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: không; Tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án số 495/HSST ngày 28/10/2003 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, bản án số 76/HSPT ngày 16/01/2004 của Toà phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “phá huỷ công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/8/2020, sau đó bị tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1013 ngày 11/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.
2. Ngô Thanh T (tên gọi khác: Cu lỳ), sinh năm 1997 tại tỉnh Bình Dương; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: khu phố 1, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc:
Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Thanh D và bà Ngô Thị Kim L; bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: không; Tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án số 79/2016/HSST ngày 28/01/2016 của Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, bản án số 131/2016/HSPT ngày 16/5/2016 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 (hai) năm tù 04 (bốn) tháng về tội “gây rối trật tự công cộng”.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/8/2020, sau đó bị tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1012 ngày 11/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.
3. Lý Anh D (tên gọi khác: Duy), sinh năm 1993 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Thành T và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: Không; tiền sự: Không.
Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 03/8/2020, đến ngày 12/8/2020 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay tại địa chỉ K4/217B, khu phố 2, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: anh Trần Văn L, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ A, khu phố C, phường H, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Thái Minh H, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp A, xã L, thành phố B Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính của vụ án:
Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 02/8/2020, Trịnh Văn H rủ Ngô Thanh T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, T đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 60F3-254.28 của T chở H đi kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đến khu nhà trọ M ở khu phố Cầu Hang, phường Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3-3794 của anh Trần Văn L, sinh năm 1991, thường trú đang thuê trọ không có người trông coi, có cắm sẵn chìa khóa ở ổ khóa điện thì H đứng ở ngoài cảnh giới, T đi vào lấy trộm xe dắt ra bên ngoài khu nhà trọ. Sau đó, T và H đưa tài sản trộm được về nhà H tại khu phố 3,phường B, thành phố Biên Hòa thay biển số giả (Không rõ biển số) để tiêu thụ. H liên lạc qua điện thoại với anh Trương Minh T sinh năm 1984, thường trú khu phố 3, phường B, thành phố Biên Hòa là chủ tiệm bán trà sữa tại địa chỉ trên hỏi anh T có mua xe không có giấy không thì anh T trả lời không mua. Lúc này tại quán trà sữa của anh T có Nguyễn H N, sinh năm 1995, thường trú khu phố 3, phường B, thành phố Biên Hòa và Lý Anh D đang ngồi uống trà sữa nghe được nội dung trên thì D nói để D mua bán kiếm lời, anh Tâm nói với H anh không mua nhưng D mua. Do H quen biết với D nên H đồng ý bán cho D. Khoảng 15 phút sau H và T điều khiển xe trộm cắp được đến quán trà sữa anh Tâm gặp D để bán xe. Do ý thức được xe H bán là xe trộm cắp nên D nói H đi về trước, D đến nhà H sau. Khoảng 20 giờ ngày 02/8/2020, D mượn xe mô tô của anh Tâm đi đến nhà H để mua xe. Khi đi D rủ Nam đi cùng. Tại nhà H thì T trực tiếp giao dịch bán xe trộm được cho Dg giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng), T nói D chỉ cần đưa 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và 01 gói ma túy sử dụng. D về quán trà sữa mượn của anh Tâm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đi mua 01 gói ma túy giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) rồi về gặp H và T nói gói ma túy giá 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). D đưa gói ma túy và 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) là tiền của D cho H. Gói ma túy H và T sử dụng chung, 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) H đưa cho T tiêu xài.
Sau khi mua xe trên D nhờ Nam điều khiển xe đi cùng với D đến tiệm game bắn cá không tên ở khu phố 5, phường B, thành phố Biên Hòa để bán thì anh Thái Minh H, sinh năm 1993, xã L, thành phố Biên Hòa là nhân viên tiệm game bắn cá mua giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), D đồng ý. Anh H đưa cho D 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) còn 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) anh Hiền nạp thẻ cho N chơi game. Sau đó, do nghi ngờ nguồn gốc xe vi phạm pháp luật nên anh H không mua nữa thì D trả lại cho anh Hiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng), còn 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) D trả cho anh T 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) D tiêu xài cá nhân. Xe mô tô trên D để lại tại tiệm game bắn cá khi nào D trả đủ tiền cho anh H thì lấy xe về. Lúc này, tại tiệm game bắn cá có Trần Minh T, sinh năm 1991, thường trú tại khu phố 2, phường H, thành phố Biên Hòa nói D thay biển số xe D bán sang xe của T và Tháo biển số 59G2-429.07 từ xe của T gắn vào xe của D. Việc thay đổi biển số anh H không biết.
Đến ngày 03/8/2020, H, T và D bị Cơ quan điều tra bắt giữ xử lý theo quy định. Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội.
Lời khai bị can H (Bút lục 80-88); Lời khai bị can T (Bút lục 105-113); Lời khai bị can D (Bút lục 118-130); Lời khai bị hại (Bút lục 146-147); Lời khai người làm chứng (Bút lục 135-140c); Lời khai người biết việc (Bút lục 142-145;
149-150).
Vật chứng thu giữ gồm:
- Xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3-3794, số khung 1UM7XE- 05446, số máy 52FMH-005446, Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại cho bị hại là anh Trần Văn L (bút lục 172, 177).
- Xe mô tô biển số 60F3-254.28, số khung RLHJA3918KY151574, số máy JA39E-1008861 là tài sản cá nhân của T dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, giấy chứng nhận đăng ký xe và số tiền 72.000 đồng (bảy mươi hai nghìn đồng) thu giữ của T là tiền liên quan đến phạm tội chuyển xử lý cùng vụ án; 01 điện thoại di động hiệu Masstel, số imei 911416455576922 và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Ngô Thanh T, Cơ quan điều tra xác minh không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho T (bút lục 176).
- Đối với biển số xe 59G2-429.07 chưa làm rõ được chủ sở hữu, Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau (Bút lục 172).
Kết luận định giá tài sản số 346/KH-HĐĐGTS ngày 05/8/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: giá trị xe mô tô biển số 62M3-3794 là 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) (bút lục 08).
2. Trách nhiệm dân sự:
Người bị hại anh Trần Văn L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường (bút lục 147). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Thái Minh H không yêu cầu bị cáo Lý Anh D bồi thường số tiền 800.000 đồng (bút lục 144, 145) 3. Các vấn đề khác có liên quan vụ án:
- Đối với Nguyễn H N, Thái Minh H và Trương Minh T không biết xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3-3794 do H và T trộm cắp nên không có căn cứ để xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
4. Truy tố:
Tại Cáo trạng số: 698/CT-VKSBH ngày 19/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo Trịnh Văn H, Ngô Thanh T về tội “trộm cắp tài sản” theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ; truy tố bị cáo Lý Anh D về tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1, Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
Về hình phạt:
+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trịnh Văn H từ :
10 (mười) đến 12 (mười hai) tháng tù.
+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Ngô Thanh T từ : 10 (mười) đến 12 (mười hai) tháng tù.
+ Áp dụng Khoản 1, Điều 323 và điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Lý Anh D từ: 05 (năm) đến 07 (bảy) tháng tù.
Về vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ nhà nước xe mô tô, giấy chứng nhận đăng ký xe và số tiền 72.000 đồng của bị cáo T là tiền liên quan đến phạm tội; các tài sản không liên quan đề nghị trả lại.
5. Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tố tụng:
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng lời khai đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến việc xét xử; nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:
- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá tài sản, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai các bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 02/8/2020, tại khu nhà trọ M ở tổ 22A khu phố C, phường H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Trịnh Văn H và Ngô Thanh T có hành vi trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3-3794 của anh Trần Văn L. Sau đó, H và T đưa xe trộm cắp được về nhà H tại phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa thay biển số giả rồi bán cho Lý Anh D giá 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng). Sau đó, D và Nguyễn H N điều khiển xe trên đến tiệm game bắn cá ở khu phố 5, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa bán cho anh Thái Minh H giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua xe do nghi ngờ xe vi phạm pháp luật nên anh Hiền trả lại xe cho D; Đến ngày 03/8/2020, H, T và D bị Cơ quan điều tra bắt giữ xử lý theo quy định.
Như vậy, bản Cáo trạng số 540/CT-VKSBH-HS ngày 19/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo về tội “ trộm cắp tài sản” “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Các bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản, tiêu thụ tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
- Về vai trò của các bị cáo: các bị cáo không có sự bàn bạc chặt chẽ mà chỉ là đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo H và T đều thực hành trực tiếp hành vi trộm cắp tài sản. bị cáo D là người tiêu thụ tài sản do H và T trộm cắp.
- Về nhân thân: bị cáo Lý Anh D có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo D phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo H, T, D để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.
[3] Về vật chứng:
- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3-3794, số khung 1UM7XE-05446, số máy 52FMH-005446, Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại cho bị hại Trần Văn L là phù hợp quy định pháp luật.
- Đối với xe mô tô biển số 60F3-254.28, số khung RLHJA3918KY151574, số máy JA39E-1008861 là tài sản cá nhân của T dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, giấy chứng nhận đăng ký xe và số tiền 72.000 đồng (Bảy mươi hai nghìn đồng) thu giữ của T là tiền liên quan đến phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Masstel, số imei 911416455576922 và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Ngô Thanh T, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho T là phù hợp quy định pháp luật - Đối với biển số xe 59G2-429.07 chưa làm rõ được chủ sở hữu, Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau là phù hợp.
[4] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:
Người bị hại anh Trần Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Thái Minh H có lời khai không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên không xem xét.
[5] Các vấn đề khác có liên quan đến vụ án: Đối với Nguyễn H N, Thái Minh H và Trương Minh T không biết xe mô tô nhãn hiệu Auric, biển số 62M3- 3794 do H và T trộm cắp nên không có căn cứ để xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp quy định pháp luật.
[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:
- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp quann điểm Hội đồng xét xử.
- Đối với phần trình bày của các bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trinh Văn H, Ngô Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Lý Anh D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s, Khoản 1, Điều 51; điều 17, 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trịnh Văn H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 8 năm 2020.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s, Khoản 1, Điều 51; điều 17, 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Ngô Thanh T 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 8 năm 2020.
- Căn cứ Khoản 1, Điều 323; điểm i, s, Khoản 1, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Lý Anh D 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, Khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
-Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô biển số 60F3-254.28, số khung RLHJA3918KY151574, số máy JA39E-1008861 (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe) và số tiền 72.000 đồng (Bảy mươi hai nghìn đồng).
Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22 tháng 12 năm 2020 và biên lai thu tiền số 000461 ngày 22/12/2020.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số:326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm:.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hoặc bản án được hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 715/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 715/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về