Bản án 71/2023/HS-ST về tội sản xuất, buôn bán hàng giả

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 71/2023/HS-ST NGÀY 03/07/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Ngày 03 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2023/TLST-HS ngày 31/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Quang Thị L- Sinh năm 1998, tại Hà Nội; Nơi đăng ký thường trú: thôn B, xã T, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp:Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Quang Văn D và bà Nguyễn Thị L; chồng là Trương Văn P, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2019, con nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: không. (Theo danh chỉ bản số 183 do công an huyện Thường Tín lập ngày 01/4/2023); Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Công ty cổ phần E Trụ sở: cụm dân cư N, xã D, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lee Jae E, chức danh: Tổng giám đốc (vắng mặt); Trú tại: cụm dân cư N, xã D, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền:

+Chị Phạm Thị Ngọc L, chức vụ: chuyên viên pháp lý Công ty E (vắng mặt).

+ Chị Đỗ Thị Thùy T, chức vụ: chuyên viên pháp lý Công ty E (có mặt) (Giấy ủy quyền số 08/2023/E ngày 01 tháng 01 năm 2023).

2/ Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1988 (có đơn xét xử vắng mặt).

Đăng ký nhân khẩu thường trú: đội 4, thôn B, xã T, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 15/3/2023, tổ công tác Công an huyện Thường Tín gồm đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế-ma túy và Công an xã Minh C làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại địa bàn xã Minh C, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội phát hiện xe ô tô BKS: 29H-X do Hoàng Văn C điều khiển đang chuẩn bị vận chuyển hàng hóa có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trên xe có 15 đệm bông ép kích thước khác nhau, mỗi đệm có 04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích, 01 phiếu bảo hành, 01 thẻ giá mang nhãn hiệu Everon. Tổ công tác yêu cầu Hoàng Văn C cho kiểm tra giấy tờ liên quan đến hàng hóa nhưng C không xuất trình được hóa đơn, chứng từ đối với hàng hóa trên. C khai nhận số hàng trên là C chở thuê cho Quang Thị L giao cho khách tên là Hoàng đặt mua, số điện thoại 0356940X, địa chỉ số 53 Trần Phú, xã Minh C, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa C về trụ sở Công an huyện Thường Tín làm việc.

Tang vật thu giữ:

-15 đệm bông ép kích thước các loại, mỗi đệm có 04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích, 01 phiếu bảo hành, 01 thẻ giá mang nhãn hiệu Everon.

-01 ô tô nhãn hiệu Kia, màu trắng, BKS: 29H-X; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Hoàng Văn C; 01 giấy chứng nhận đăng kiểm xe ô tô BKS: 29H- X; 01 đăng ký xe ô tô BKS: 29H-X; 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe ô tô.

Tại cơ quan điều tra Quang Thị L khai nhận: sau khi lên mạng xã hội tìm hiểu và học cách sản xuất đệm bông ép loại ba tấm, L đã đặt mua của chị Hoàng Thị Điệp 15 ruột đệm bông ép, kích thước cụ thể: 03 ruột đệm bông kích thước 1,6mx2mx9cm;

10 ruột đệm bông kích thước 1,8mx2,9cm; 02 ruột đệm bông kích thước 2mx2,2mx9cm, giá là 30.500 đồng/01 kg. Sau đó L đặt mua của một người phụ nữ không quen biết khoảng 40 tuổi bán vỏ gối, đệm trên xe ô tô tải tại khu vực thôn Trát Cầu, xã Tiền Phong, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội, số lượng cụ thể là: 03 bộ tem, nhãn mác, vỏ đệm kích thước 1,6mx2m giá 370.000 đồng/ bộ; 10 bộ tem, nhãn mác, vỏ đệm kích thước 1,8mx2m với giá 420.000 đồng/bộ; 02 bộ tem, nhãn mác, vỏ đệm kích thước 2mx2,2m giá 520.000 đồng/bộ. Sau khi mua đầy đủ nguyên liệu, L trực tiếp thực hiện sản xuất đệm bông ép có nhãn Everon bao gồm các bước lồng vỏ đệm vào ruột đệm, lắp đặt bộ tranh tem vào đệm, lồng túi nilon hoàn thiện sản phẩm. Quá trình sản xuất do có nguyên liệu sẵn nên chỉ thao tác bằng tay, không sử dụng các phương tiện máy móc gì và do một mình L thực hiện, không có ai khác tham gia. Sau khi hoàn thiện sản phẩm sẽ bán ra thị trường với giá khoảng 1.000.000 đồng đến 1.200.000 đồng/chiếc. Giao dịch mua bán giữa L và Hoàng chưa thành công, L chưa nhận được tiền do Hoàng chuyển, đồng thời L chưa bán được chiếc đệm nào ra thị trường.

Qua khám xét chỗ ở của L tại thôn B, xã T, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội không phát hiện và thu giữ gì.

Công ty cổ phần E được cấp Giấy chứng nhận đăng đăng ký nhãn hiệu “EVERON” số 176421 của Cục sở hữu trí tuệ- Bộ khoa học và Công nghệ, qua kiểm tra số tang vật đã thu giữ, đại diện Công ty xác nhận: 15 chiếc đệm có nhãn Everon đã thu giữ là sản phẩm giả, không phải do công ty E sản xuất hoặc ủy quyền sản xuất, phân phối. Công ty E không ký bất kỳ hợp đồng ủy quyền hoặc hợp đồng kinh tế với đơn vị sản xuất, gia công bên ngoài. Các sản phẩm đệm giả nhãn hiệu Everon mà Công an huyện Thường Tín đã thu giữ có cùng kiểu dáng, mẫu mã, kích thước, tính năng, công dựng với sản phẩm đệm bông ép Everon của Công ty cổ phần E đã đăng ký nhãn hiệu được Cục sở hữu trí tuệ bảo hộ, đồng thời cung cấp Bảng giá đệm bông ép của Công ty cổ phần E niêm yết công khai từ ngày 01/6/2022. Giá trị các đệm bông tạm giữ tại thời điểm xảy ra ngày 15/3/2023 được tính theo giá trị hàng thật căn cứ theo bảng giá đệm bông ép của Công ty cổ phần E niêm yết công khai từ ngày 01/6/2022 như sau:

-Sản phẩm đệm bông ép 03 tấm thành phẩm kích thước (160x200)mm, dày 9cm, giá 3.860.000 đồng/sản phẩm, tổng số 03 đệm có giá trị 11.580.000 đồng.

-Sản phẩm đệm bông ép 03 tấm thành phẩm kích thước (180x200)mm, dày 9cm, giá 4.270.000 đồng/ sản phẩm, tổng số 10 đệm có giá trị 42.700.000 đồng.

-Sản phẩm đệm bông ép 03 tấm thành phẩm kích thước (200x220)mm, dày 9cm, giá 5.840.000 đồng/sản phẩm, tổng số 02 đệm có giá trị 11.680.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1810/KL-KTHS ngày 29/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận:

Các chi tiết in trên:

-04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích giới thiệu sản phẩm, 01 nhãn mác giá sản phẩm của 03 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,6x2,0)m dày 9cm.

-04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích giới thiệu sản phẩm, 01 nhãn mác giá sản phẩm của 10 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,8x2,0)m dày 9cm.

-04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích giới thiệu sản phẩm, 01 nhãn mác giá sản phẩm của 2 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (2,0x2,2)m dày 9cm.

Với các chi tiết in trên mẫu so sánh tương ứng không được in ra từ cùng một biểu mẫu.

Tại bản cáo trạng số 50/CT-VKSTT ngày 30/5/2023,Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín truy tố Quang Thị L về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo điểm a khoản 1 Điều X Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

*Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận nội dung bản cáo trạng truy tố đúng hành vi bị cáo đã thực hiện, thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

*Đại diện Công ty cổ phần E: Thực tế số đệm bông ép trên chưa bán ra thị trường nên Công ty chưa bị thiệt hại gì về kinh tế, công ty không có ý kiến hay yêu cầu đề nghị gì.

*Đại diện VKSND huyện Thường Tín giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều X; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề nghị:

-Xử phạt Quang Thị L từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách tù 36 đến 48 tháng.

-Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 03 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,6x2,0)m dày 9cm; 10 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,8x2)m, dày 9cm; 02 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (2x2,2)m, dày 9cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Khoảng tháng 3 năm 2023, Quang Thị L đã tìm mua các nguyên liệu là ruột đệm, vỏ đệm, tem, nhãn mác có in nhãn hiệu Everon của Công ty cổ phần E để sản xuất bán đệm bông ép thành phẩm mang thương hiệu Everon. Quá trình sản xuất L đã làm giả được tổng số 15 đệm bông ép thành phẩm gồm 03 loại đệm, loại 03 tấm, kích thước (1,6x2,0)m dày 9cm; 10 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,8x2)m, dày 9cm; 02 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (2x2,2)m, dày 9cm. Trên mỗi tấm đệm đều được gắn 04 nhãn mác góc đệm, 01 áp phích giới thiệu sản phẩm, 01 phiếu bảo hành, 01 nhãn mác giá sản phẩm. Sau khi làm giả các sản phẩm đệm bông như trên L nhờ Hoàng Văn C vận chuyển đi tiêu thụ thì bị phát hiện, bắt giữ. Tổng số hàng đệm bông ép giả tương đương với số lượng hàng thật trị giá là 65.960.000 đồng. Như vậy, hành vi của Quang Thị L đã phạm vào tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” theo điểm a khoản 1 Điều X- Bộ luật hình sự năm 2015.Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại, ảnh hưởng đến quyền lợi ích của người tiêu dùng và quyền được bảo hộ của doanh nghiệp. Do vậy cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nhận thấy bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, hiện bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên không cần bắt chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để giáo dục răn đe đối với bị cáo.

[5] Đối với anh Hoàng Văn C là người được Quang Thị L thuê chở số đệm bông ép mang nhãn hiệu Everon để giao cho khách ở xã Minh C, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội. Quá trình chở hàng, C không biết số đệm bông ép L thuê chở giao cho khách là do L sản xuất đệm bông giả mang thương hiệu Everon của Công ty cổ phần E. C chưa nhận tiền công và tiền khách thanh toán cho L. Do đó cơ quan điều tra không xử lý C là có căn cứ [6] Đối với Hoàng Thị Điệp là người bán ruột đệm bông ép cho L, quá trình điều tra xác định Điệp không biết L mua số ruột đệm bông ép để sản xuất hàng giả mang thương hiệu Everon của Công ty cổ phần E nên Cơ quan điều tra không xử lý Điệp là có căn cứ.

[7] Đối với người bán vỏ, tem, nhãn mác sản phẩm đệm có in nhãn hiệu Everon và người khách mua hàng của L tên Hoàng tại địa chỉ số 53 Trần Phú, xã Minh C, huyện Thường Tín: Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của những người trên nên tách hành vi trên để điều tra xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[8] Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

-01 ô tô nhãn hiệu Kia, màu trắng, BKS: 29H-X; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Hoàng Văn C; 01 giấy chứng nhận đăng kiểm xe ô tô BKS: 29H- X; 01 đăng ký xe ô tô BKS: 29H-X; 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe ô tô, xét xe ô tô và giấy tờ trên của của anh Hoàng Văn C nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh C là có căn cứ.

-03 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,6x2,0)m dày 9cm; 10 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,8x2)m, dày 9cm; 02 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (2x2,2)m, dày 9cm là các hàng giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 - Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333- Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều X; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1.Về tội danh: Tuyên bố Quang Thị L phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”.

2.Về hình phạt: Xử phạt Quang Thị L 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Quang Thị L cho UBND xã T, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,6x2,0)m dày 9cm; 10 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (1,8x2)m, dày 9cm; 02 đệm bông ép thành phẩm, loại 03 tấm, kích thước (2x2,2)m, dày 9cm (đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Thường Tín tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/6/2023)

4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 – Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333- Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Bị cáo Quang Thị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Công ty cổ phần E có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Hoàng Văn C có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Về việc thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2023/HS-ST về tội sản xuất, buôn bán hàng giả

Số hiệu:71/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Tín - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;