Bản án 71/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 71/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2021/TLHS- HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K, sinh năm 1995 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/02/2021, chuyển tạm giam từ ngày 05/02/2021 đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đình T - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hà Nam. Nơi làm việc: Công ty Luật TNHH Hà Nam; có mặt.

* Người làm chứng: Ông Phạm Xuân S, sinh năm 1956; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 02/02/2021, Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 90B1-803.76 đến thành phố P để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực đường Đ thuộc tổ dân phố N, phường C, thành phố P thì gặp một người thanh niên khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ ở đâu. Trong lúc nói chuyện K hỏi người thanh niên “có ma túy không” (ý K hỏi người này có ma túy bán không), người này trả lời “Có”. K lấy số tiền 100.000đ đưa cho người thanh niên, người này cầm tiền rồi đưa lại cho K một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng rồi bỏ đi. K biết bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy nên cầm vỏ bao thuốc lá kẹp vào gác ba ga ở giữa xe mô tô rồi điều khiển xe đi tìm chỗ để sử dụng, vừa đi được một đoạn thì bị tổ công tác của Công an phường C, thành phố P kiểm tra, phát hiện, đưa K về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh tím; 01 xe máy nhãn hiệu Honda màu trắng, biển kiểm soát 90B1-803.76.

Ngày 02/02/2021 Công an phường C đã chuyển hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 03/02/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Văn K ở thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 32/PC09-MT ngày 05/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,144g, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS-PL ngày 23/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Khương phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 15 đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy, loại Heroine hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu Honda, BKS 90B1-803.76 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 071095 mang tên Nguyễn Văn K; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh tím.

+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo, ông Nguyễn Đình T có ý kiến: Về tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo không có ý kiến gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 02/02/2021 tại khu vực tổ dân phố N, phường C, thành phố P, Nguyễn Văn K đang cất giấu trái phép 0,144 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường C, thành phố P phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ của bị cáo là bà Nguyễn Thị T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố bị cáo bị bệnh tâm thần và đang được hưởng trợ cấp có xác nhận của UBND xã H, huyện K nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố P. Là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy loại Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án mà Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 90B1-803.76 và 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn K là tài sản hợp pháp của bị cáo K, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Các tình tiết khác của vụ án:

Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 106; 135; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Áp dụng Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 02 năm 2021.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01” số 32/PC09-MT và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda màu trắng biển kiểm soát 90B1-80376, số máy: HC12E-5389811, số khung: RLHHC1218ROY389788, xe cũ đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 071095 mang tên Nguyễn Văn K.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Redmi màu xanh tím, số IMEI1: 862471046402442, số IMEI2: 862471047882444, điện thoại cũ đã qua sử dụng. (Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 23/4/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;