Bản án 71/2020/HS-ST ngày 27/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2020 tại Nhà văn hóa ấp B, xã P, huyện N tỉnh Đồng Nai Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:76/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Long H (tên gọi khác: H Cá), sinh năm 1976 tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp B, xã Đ, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị C sinh năm (không xác định); vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1977 (đã ly hôn) có 03 con (lớn nhất sinh năm 1999 nhỏ nhất sinh năm 2014); Tiền án: Ngày 25/9/2015, bị TAND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành án tại Trại giam Thủ Đức thuộc cục C10, Bộ Công an, đến ngày 04/11/2016, chấp hành xong. Bị cáo chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 24/9/2002, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”. Bị cáo chấp hành án tại Trại giam Xuân Lộc thuộc cục V26 Bộ Công an, đến ngày 29/8/2006 được đặc xá tha tù trước thời hạn. Ngày 10/8/2012, bị UBND huyện N đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Đồng Nai thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai 24 tháng. Đến ngày 10/02/2014, chấp hành xong; bị bắt tạm giữ ngày 26/3/2020.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diển biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Long H là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2012 đến nay. Vào lúc 18 giờ ngày 25/3/2020, H dùng số điện thoại 0938872071 gọi cho T (chưa rõ nhân thân) hỏi mua 400.000 đồng ma tuý, T đồng ý và hẹn H đến chân cầu vượt Mỹ T thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh để giao ma tuý, H điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Wave A 110 biển số 60C2-655.11 đến chân cầu Mỹ T gặp T mua 01 gói ma tuý với giá 400.000 đồng. Sau đó, H điều khiển xe về xã P rồi điện thoại cho Trần Phi H1, sinh năm 2000, ngụ tại: ấp G, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai là cháu H hỏi H1 đang ở đâu, H1 nói đang ngủ ở phòng số 6 nhà nghỉ “Tuyến V” thuộc ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. H đi đến phòng H1 và H1 để cửa phòng không khoá cho H1 vô. H thấy H1 ngủ nên H lấy một ít ma tuý ra bỏ vô nỏ thuỷ tinh, dùng hộp quẹt đốt và sử dụng ma tuý. Sau đó, H đi ngủ đến 00 giờ 30 phút ngày 26/3/2020, H thức dậy và kêu H1 về. Khi H và H1 đang điều khiển xe mô tô biển số60C2-655.11 đi đến đường Trần Văn T thuộc ấp T, xã P, huyện N thì bị lực lượng tuần tra kiểm soát thuộc Công an huyện Nhơn Trạch phát hiện thu giữ trên người H một gói ma tuý mà H sử dụng còn lại. Lực lượng tuần tra đưa H về trụ sở Công an xã P để làm việc lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Quá trình điều tra Lê Long H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 625/PC09-GĐPY ngày 01/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định có chữ ký của Lê Long H, Nguyễn Như H2, Trần Phi H1, Đặng Văn T là ma túy, có khối lượng: 1,3440 gam, loại: Methamphetamine Tình tiết tăng nặng: Tái phạm; Tình tiết giảm nhẹ: Bị can thành khẩn khai báo.

Vật chứng vụ án: 01 (một) gói nylon hàn kín, kích thước 04 x 04 cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 (một) điện thoại Oppo màu đen của Lê Long H; 01 (một) vỏ gói thuốc lá Jet, màu trắng của Lê Long H; 01 (một) sim số điện thoại 0938872071 của Lê Long H; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave màu trắng biển số 60C2 – 655.11.

Tại bản cáo trạng số: 77/CT.VKS-NT ngày 17/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Lê Long H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Long H từ 30 đến 36 tháng tù;

Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 625/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 vỏ gói thuốc lá Jet màu trắng; 01 sim số 0938872071 của Lê Long H; Tịch thu xung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo là công cụ Lê Long H sử dụng vào việc phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Tại phiên tòa bị cáo Lê Long H không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo H không có ý kiến gì, tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo cho rằng đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm số 141/2015/HS-ST ngày 25/9/2015. Nhận thấy tại Công văn số 72/CV-THADS ngày 29/5/2020 Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xác định bị cáo H chưa thi hành nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm đối với bản án trên, ngoài ra bị cáo không có căn cứ gì để chứng minh đã nộp án phí như đã trình bày, nên không có căn cứ để xem xét. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo Lê Long H (sinh năm 1976)có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thừa nhận: Vào lúc 18 giờ ngày 25/3/2020, tại chân cầu vượt Mỹ T thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Lê Long H đã mua của một người đàn bà tên T mua 01 gói ma tuý với giá 400.000 đồng. Sau đó đến nhà nghỉ “Tuyến V” thuộc ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai sử dụng một ít, số còn lại bỏ vào vỏ bao thốc là Jet cất giữ trong người. Đến 00 giờ 30 phút ngày 26/3/2020 H điều khiển xe mô tô biển số60C2-655.11 đi đến đường Trần Văn T thuộc ấp T, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì bị lực lượng tuần tra kiểm soát thuộc Công an huyện Nhơn Trạch phát hiện thu giữ trên người H một gói ma tuý chứa thành phần Methamphnetamine có khối lượng 1,3440 gammà H sử dụng còn lại.

Lời thừa nhận của bị cáo Lê Long H phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai người làm chứngvà các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Cho thấy lượng ma túy bị cáo Lê Long H tàng trữ chứa thành phần Methamphnetamine có khối lượng 1,3440 gam (khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam) và hành vi phạm tội của bị cáo đã được thực hiện xong.

Nên có đủ căn cứ kết luận: Hành vi của bị cáo Lê Long H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố bị cáo Lê Long H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Ti phạm do bị cáo Lê Long H thực hiện lànghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Việc mua bán, tàng trữ sử dụng ma túy diễn ra hết sức phức tạp, lôi kéo nhiều người vào con đường nghiện ngập là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử và xử lý hành chính. Trong đó bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cai nghiện bắt buộc (đã được xóa) và 01 tiền án về loại tội phạm này chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự; bị cáo biết rõ việc tàng trữ sử dụng chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã mua ma túy về tàng trữ để sử dụng, thể hiện việcthiếu ý thức chấp hành pháp luật.Do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, cần thiết áp dụng hình phạt giam, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Long H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự.

Xét lời luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt là phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại Oppo màu đen, H sử dụng liên lạc mua ma túy về tàng trữ là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội có giá trị sử dụng, cần tịch thu sung quỹ nhà nước là có căn cứ.

- 01 vỏ gói thuốc lá Jetmàu trắng và 01 sim số điện thoại 0938872071, H sử dụng để đựng ma túy và liên lạc mua ma túy là công cụ phương tiện đã dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

- ợng ma túy còn lại sau giám định có trọng lượng: 1,3259 gam được niêm phong trong phong bì có ký hiệu 625/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, là tài sản của Lê Long H sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

Đi với người đàn bà tên T là người bán ma túy cho H nhưng hiện tại chưa xác định được nhân thân lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tách ra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

Đi với Trần Phi H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nhơn Trạch đã ra quyết định xử phạm vi phạm hành chính đối với H về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đi với xe mô tô biển số60C2-655.11, H dùng để làm phương tiện đi mua ma túy. Qua xác minh chủ sở hữu là của anh Nguyễn Ngọc L, Cơ quan cảnh sát điều tracông an huyện Nhơn Trạch đã tiến hành xác minh nơi ở của L nhưng L không có mặt tại địa phương nên chưa tiến hành làm việc được. Do đó, Cơ quan CSĐT sẽ tách ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau đối với xe mô tô trên là có cơ sở.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lê Long H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Lê Long H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Xử phạt bị cáo Lê Long H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính ngày 26/03/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

-Tch thu 01 điện thoại Oppo màu đen sung quỹ nhà nước.

-Tch thu 01 vỏ gói thuốc lá Jetmàu trắng và 01 (một) sim số điện thoại 0938872071tiêu hủy.

-Tch thu 1,3259 gam ma túy (loại Methamphnetamine) được niêm phong trong phong bì có ký hiệu 625/KLGĐ-PC09 ngày 01/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Naitiêu hủy.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày24/6/2020của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch).

Về án phí: Áp dụng Điều136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Long H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2020/HS-ST ngày 27/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;