Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 71/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2020/TLST- HNGĐ, ngày 17 tháng 4 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Ngọc T, sinh năm 1985; hộ khẩu: Số 457, ấp An H, xã Mỹ An H B, huyện Lấp V, tỉnh Đồng T; tạm trú: Số 212, ấp Đông K, xã Tân Khánh Đ, thành phố Sa Đ, tỉnh Đồng T (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Văn B, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Số 457, ấp An H, xã Mỹ An H B, huyện Lấp V, tỉnh Đồng T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa chị T là nguyên đơn trình bày:

Chị T và anh B chung sống năm 2005, kết hôn năm 2007. Chung sống đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp nhau, anh B nghe lời cha mẹ, không đảm đương công việc gia đình, cha mẹ chồng khắt khe chuyện tiền bạc, chi phí không đủ để lo cho con ăn học, chị T đi lặt ớt thuê, làm tăng ca để có đủ tiền xoay sở, thì cha chồng ra đến nơi làm của chị T để chửi, không cho làm. Chị T đem con về quê ngoại Sa Đéc sống đến nay. Chị T có đề cập tới việc vợ chồng ra sống riêng tự lập nhưng anh B không đồng ý.

Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn B.

Quá trình chung sống có 02 con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Như, sinh ngày 22/4/2007 và Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 hiện do chị T nuôi dưỡng; nay ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, yêu cầu anh B cấp dưỡng theo quy định pháp luật.

Về chia tài sản chung: Chị T không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản hòa giải và tại phiên tòa anh B là bị đơn trình bày:

Thng nhất lời trình bày của chị T về thời gian kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn. Thời gian đầu chi tiêu trong nhà do anh B lo, nhưng sau này 02 con lớn, đi học, chi phí nhiều, một mình anh B thu nhập không đủ để lo cho con, nên chị T muốn đi làm kiếm tiền, anh B cũng đồng ý. Nay anh B biết mình sai, hứa sẽ khắc phục nên không đồng ý ly hôn. Nhưng cha mẹ anh B có mình anh là con trai, nên phải sống chung cha mẹ, không thể ra ở riêng như nguyện vọng của chị T.

Quá trình chung sống có 02 con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Như, sinh ngày 22/4/2007 và Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 hiện do chị T nuôi dưỡng; nếu có ly hôn anh B yêu cầu nuôi con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 không yêu cầu chị T cấp dưỡng. Trường hợp giao 02 con cho chị T nuôi, anh B không cấp dưỡng, vì thu nhập của anh B không ổn định.

Về chia tài sản chung: Anh B không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Anh B không yêu cầu giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Con chung để chị T tiếp tục nuôi dưỡng, buộc anh B cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh B đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị T và anh B chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa chị T và anh B là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Chị T và anh B chung sống có 02 con chung, lẽ ra anh chị phải biết chia sẻ, quan tâm nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng anh B không làm được điều đó, mặc dù anh B biết bản thân không thể lo đủ cho vợ con, để vợ bươn chải phụ anh lo cho gia đình, lẽ ra anh B phải hiểu, chia sẻ gánh vác cùng với vợ, tâm sự với cha mẹ anh để cha mẹ hiểu, thông cảm. Anh B không thể dung hòa được mối quan hệ giữa cha mẹ và vợ, mặc dù đã có vợ con, nhưng anh B không tự chủ mà còn lệ thuộc nhiều vào cha mẹ. Cha anh B đến tận nơi làm việc của chị T để chửi mắng về việc chị T đi làm mà không về nhà lo con cái, cơm nước, dẫn đến mâu thuẫn trở nên gay gắt. Tại phiên tòa anh B cũng khẳng định không thể ra ở riêng theo nguyện vọng của chị T.

Tại biên bản lấy lời khai, cha mẹ anh B cũng cho rằng anh B chịu ly hôn, miễn sao được nuôi con là được.

Điều đó chứng minh anh B không đồng ý ly hôn chỉ vì không muốn sống xa 02 con. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp, nếu ly hôn anh B vẫn có quyền thăm nom con.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng 1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.” Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên 1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa chị T và anh B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ.

Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình chung sống có 02 con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Như, sinh ngày 22/4/2007 và Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 hiện do chị T nuôi dưỡng;

nếu có ly hôn anh B yêu cầu nuôi con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 không yêu cầu chị T cấp dưỡng. Trường hợp giao 02 con cho chị T nuôi, anh B không cấp dưỡng.

Bé Huỳnh Như có văn bản muốn sống với mẹ, đồng thời ở chung với mẹ từ khi cha mẹ không sống chung, nên giao cho chị T tiếp tục nuôi.

Đối với bé Huỳnh Anh còn rất nhỏ, sống chung với mẹ và chị. Gắn kết tình cảm mẹ con, chị em.

Anh B cũng xác định khi anh đến thăm hai con thì hai con không quyến luyến anh nhiều, không chịu về nhà nội.

Đến nay hai con vẫn khỏe mạnh, phát triển bình thường, được học hành đầy đủ, chứng minh chị T đủ điều kiện nuôi dưỡng, nên giao chị T nuôi là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Anh B không trực tiếp nuôi con nên phải cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị T là phù hợp.

Tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.” Xét điều luật trên, anh B không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị T yêu cầu mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Anh B không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, chị T và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Chị T và anh B không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về nợ chung: Chị T và anh B không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị T xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội.

Anh B phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 59, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Ngọc T. Chị Phạm Ngọc T được ly hôn với anh Lê Văn B.

2. Về nuôi con chung:

Chị Phạm Ngọc T được quyền tiếp tục nuôi 02 con chung tên Lê Ngọc Huỳnh Như, sinh ngày 22/4/2007 và Lê Ngọc Huỳnh Anh, sinh ngày 23/4/2015 hiện do chị T nuôi dưỡng.

Buộc anh Lê Văn B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con, trong đó một con mỗi tháng là ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, tương ứng từng thời điểm thi hành án. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 9/2020 đến khi Huỳnh Như và Huỳnh Anh đủ 18 tuổi.

Anh B được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị T và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh B thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Chị Phạm Ngọc T phải nộp 300.000 đồng (B trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (B trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0009308 ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

Anh Lê Văn B phải nộp 300.000 đồng (B trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con.

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:71/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;