Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 13/02/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 71/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/02/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 567/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 567/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13-01-2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thu  H - sinh năm 1983; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 27 đường Đinh Bộ Lĩnh, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 13/176 đường Cù Chính Lan, phường Trần Tế Xương, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Phan Huy Đ - sinh năm 1979; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 27 đường Đinh Bộ Lĩnh, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 27 đường Đinh Bộ Lĩnh, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nộp ngày 02-11-2019, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Phan Thị Thu  H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phan Huy Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 16-01-2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính cách không hòa hợp, anh Đ không có trách nhiệm với gia đình, cuộc sống hôn nhân trở nên bế tắc. Tình cảm giữa chị và anh Phan Huy Đ không còn nữa, mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng và không có biện pháp khắc phục. Hiện tại, vợ chồng anh chị vẫn đang sống ly thân, chị  H xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng xin ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là: Phan Quỳnh Anh, sinh ngày 20 tháng 12 năm 2007 và Phan Hải Đăng, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2017. Hiện tại, con chung là Phan Hải Đăng đang được chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, con chung là Phan Quỳnh Anh đang sống cùng anh Đ và ông bà nội. Nếu vợ chồng ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cháu Phan Hải Đăng, anh Phan Huy Đ nuôi cháu Phan Quỳnh Anh. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai vào ngày 20-12-2019 bị đơn anh Phan Huy Đ trình bày:

Về hôn nhân: Giữa anh và chị  H có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 02 năm trước khi kết hôn. Anh và chị  H kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 16-01-2007 trên tinh thần tự nguyện. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ của anh Đ địa chỉ: Số 27 đường Đinh Bộ Lĩnh, phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị phát sinh từ hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, mặc dù vậy nhưng vợ chồng không xảy ra việc to tiếng hay xô xát với nhau, ngoài ra không còn nguyên nhân mâu thuẫn nào khác. Nay chị  H có nguyện vọng ly hôn, anh Đ đồng ý ly hôn với chị  H. Do tính chất công việc phải đi làm vắng nhà thường xuyên nên không thể đến Tòa án để tham gia các phiên họp và phiên tòa được .

Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Nếu ly hôn, anh Đ có nguyện vọng được nuôi con chung là Phan Quỳnh Anh, sinh ngày 20 tháng 12 năm 2007; chị  H nuôi con chung là Phan Hải Đăng, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2017. Anh Đ không yêu cầu chị  H phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản làm việc tại tổ dân phố số 14, phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định đã xác nhận tình trạng hôn nhân giữa chị  H và anh Đ là có mâu thuẫn, vợ chồng anh chị hiện đang sống ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát chủ yếu từ hoàn cảnh kinh tế của gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị  H và anh Đ là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên vợ chồng anh chị đã xảy ra mâu thuẫn dẫn tới cuộc sống chung của anh chị không còn trên thực tế. Nay hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử ly hôn giữa chị Phan Thị Thu  H và anh Phan Huy Đ. Về con chung: Căn cứ nguyện vọng về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung của chị  H và anh Đ. Đ thời, nguyện vọng của cháu Phan Quỳnh Anh muốn ở với bố nên căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị giao con chung Phan Hải Đăng cho chị  H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung Phan Quỳnh Anh cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; cả hai không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị  H là nguyên đơn nên căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị  H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Phan Huy Đ là bị đơn đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Đ.

[2] Về hôn nhân: Chị Phan Thị Thu  H và anh Phan Huy Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 16/01/2007 nên hôn nhân giữa chị  H và anh Đ là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về tình cảm: Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của chị  H và anh Đ phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân. Hiện tại, vợ chồng anh chị đang sống ly thân, cuộc sống chung không còn trên thực tế. Nay chị  H xác định không còn tình cảm với anh Đ và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh Đ không có thiện chí hòa giải mâu thuẫn vợ chồng và đồng ý ly hôn với chị  H. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị  H và anh Đ ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa chị  H và anh Đ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị  H, anh Đ có 02 con chung là: Phan Hải Đăng, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2017 và Phan Quỳnh Anh, sinh ngày 20 tháng 12 năm 2007. Xét nguyện vọng của chị  H, anh Đ đều thống nhất trong trường hợp vợ chồng ly hôn, chị  H sẽ trực tiếp nuôi con chung là Phan Hải Đăng, anh Đ sẽ trực tiếp nuôi con chung là Phan Quỳnh Anh và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Ngoài ra, nguyện vọng của cháu Phan Quỳnh Anh cũng muốn được ở với bố. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để giao cho chị  H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Phan Hải Đăng; giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Phan Quỳnh Anh. Không buộc chị  H, anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị  H, anh Đ xác nhận vợ chồng không có tài sản gì chung, vay nợ gì chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chị Phan Thị Thu  H là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Phan Thị Thu H và anh Phan Huy Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Phan Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Phan Hải Đăng (Giới tính: Nam), sinh ngày 20 tháng 11 năm 2017. Giao cho anh Phan Huy Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là Phan Quỳnh Anh (Giới tính: Nữ), sinh ngày 20 tháng 12 năm 2007. Chị Phan Thị Thu  H và anh Phan Huy Đ không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phan Thị Thu  H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Phan Thị Thu  H đã nộp tại biên lai số 0002594 ngày 04- 12-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Chị Phan Thị Thu  H đã nộp đủ.

Chị Phan Thị Thu  H có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phan Huy Đ có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2020/HNGĐ-ST ngày 13/02/2020 về ly hôn

Số hiệu:71/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;