Bản án 71/2019/HSST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2019/HSST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: L V Q, sinh ngày 05/7/1991, tại Í O, M L, Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản N L, thị trấn Í O, huyện M L, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông L V C (đã chết) và con bà L Th Q (đã chết), có vợ là L Th M, sinh năm 1988 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2010, hiện nay đều cư trú tại bản T L, xã Ch H, huyện M L, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15 tháng 3 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lường Duy Tuyên, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Đ V Y. Sinh năm 1973.

Địa chỉ: Tiểu khu x, thị trấn Í O, huyện M L, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại Bản cáo trạng số 651/CT-VKSML ngày 03/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố bị cáo L V Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 15/3/2019 tổ công tác Công an huyện Mường La phát hiện bắt quả tang đối tượng L Văn Q đang có hành vi bán trái phép 02 gói nilon màu hồng, bên trong các gói có chứa cục chất bột màu trắng cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng tại nhà ở của Quy ở bản Nà Lốc, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Lò Văn Quy, quá trình khám xét thu giữ 04 gói nilon màu xanh, 04 gói nilon màu hồng bên trong đều có cục bột màu trắng Quy khai nhận là heroine và 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng 02 cục màu hồng theo Quy khai nhận là hồng phiến.

Ngày 15/3/2019 Công an huyện Mường La tiến hành cân tịnh 02 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa cục bột màu trắng thu giữ của Đinh Văn Yên và Lò Văn Quy có khối lượng 0,05 gam, ký hiệu QY; 08 gói nilon màu hồng và xanh, bên trong có chứa cục bột màu trắng có tổng khối lượng 0,34 gam, ký hiệu từ Q1 đến Q8; 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa 02 cục màu hồng có khối lượng 0,07 gam, ký hiệu Q9.

Ngày 15/3/2019 Công an huyện Mường La đã ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy đối với các mẫu ký hiệu QY, Q1 đến Q9.

Ngày 19/3/2019 Công an huyện Mường La đã ra quyết định trưng cầu giám định về tiền đối với 02 tờ tiền có mệnh giá 100.000 đồng có số seri VR 11638062 và ON 16326768.

Ngày 17/3/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có bản kết luận giám định số 598, kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu QY và Q1 đến Q8 đều là chất ma túy, loại chất heroine; Mẫu vật gửi giám định ký hiệu Q9 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine.

Ngày 27/3/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có bản kết luận giám định số 715, kết luận: là tiền thật.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, Lò Văn Quy khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 15/3/2019 Quy đang ở nhà thì có Đinh Văn Yên đến hỏi Quy “Có heroine bán không?”, Quy trả lời: “Có”, sau đó Yên đưa cho Quy 200.000 đồng, Quy nhận tiền cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi lấy ra 02 gói nilon màu hồng, bên trong đựng cục bột màu trắng đưa cho Yên thì bị bắt quả tang.

Ngoài lần bị bắt quả tang ngày 15/3/2019, Lò Văn Quy khai nhận vào khoảng 20 giờ ngày 14/3/2019 Lò Văn Quy đã bán 02 gói heroine cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng tại nhà của Quy. Lò Văn Quy đã sử dụng số tiền này để mua 02 gói heroine từ một người thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ, sau đó Quy cắt lấy một ít, số còn lại mang bán cho Đinh Văn Yên thì bị bắt quả tang. Đinh Văn Yên đã sử dụng hết số heroine mua của Lò Văn Quy vào ngày 14/3/2019.

Về nguồn gốc số heroine Quy có để bán cho Yên vào 20 giờ ngày 14/3/2019 là do một người đàn ông tên Thắng đưa cho vào khoảng 16 giờ cùng ngày, sau đó Lò Văn Quy chia ra làm 02 gói nhỏ, đều bằng nilon màu xanh rồi đem bán cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng. Đối với 02 gói heroine được gói bằng nilon màu hồng Lò Văn Quy bán cho Đinh Văn Yên vào ngày 15/3/2019 là do Quy mua của một người đàn ông (Quy không biết họ tên, địa chỉ chính xác) với số tiền 200.000 đồng, sau đó đem về nhà cắt một ít để sử dụng. Đối với 09 gói, gồm 04 gói heroine được gói bằng nilon màu xanh, 04 gói heroine được gói bằng nilon màu hồng, 01 gói hồng phiến được gói bằng nilon màu hồng là do ngày 14/3/2019 Quy mang điện thoại của mình lên xã Ngọc Chiến, huyện Mường La để đổi lấy ma túy từ một người đàn ông dân tộc Mông (Quy không biết tên, địa chỉ) tại đập thủy điện Nậm Chiến, xã Ngọc Chiến, huyện Mường La.

Đối với Đinh Văn Yên là người đã mua 02 gói heroine của Lò Văn Quy để sử dụng, số heroine khi thu giữ có khối lượng 0,05 gam. Lần mua ngày 14/3/2019 Lò Văn Quy đã bán 02 gói heroine cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng, Đinh Văn Yên đã sử dụng hết số heroine. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đinh Văn Yên, cơ quan Công an huyện Mường La đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông là người đã đổi 01 gói hồng phiến để lấy chiếc điện thoại của Lò Văn Quy vào ngày 14/3/2019 tại khu vực đập thủy điện Nậm Chiến, xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, ngoài lời khai của Lò Văn Quy Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La không thu thập được chứng cứ nào khác nên không có đủ căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

Đối với người đàn ông tên Thắng (sinh năm 1985, trú tại bản Tìn, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La) là người đã đưa cho Lò Văn Quy 01 gói heroine được gói bằng nilon màu xanh vào khoảng 16 giờ ngày 14/3/2019, Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã tiến hành xác minh nhưng không có ai tên Thắng thường trú, tạm trú hoặc thăm người thân tại địa chỉ trên vào thời gian trên. Ngoài lời khai của Lò Văn Quy Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La không thu thập được chứng cứ nào khác nên không có đủ căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Quy đủ yếu tố cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Quy phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Quy từ 07 đến 08 năm tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Đối với vật chứng của vụ án:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong có vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 200.000 đồng. Đề nghị truy thu số tiền 200.000 đồng của bị cáo đã bán ma tuý ngày 14/3/2019.

Đề nghị buộc bị cáo chịu tiền án phí theo quy định chung của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo khẳng định bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước và một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì bị cáo là người dân tộc sống ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, và sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực sửa chữa lỗi lầm. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, tài sản không có giá trị lớn.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La; Kiểm sát viên, Người bào chữa cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo L Văn Q thừa nhận: Ngày 15/3/2019 L Văn Q đã có hành vi bán trái phép 0,05 gam heroine cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng tại khu vực nhà ở của Quy thì bị bắt quả tang. Ngoài ra vào 20 giờ ngày 14/3/2019 Lò Văn Quy còn bán 02 gói heroine cho Đinh Văn Yên với số tiền 200.000 đồng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết quả giám định vật chứng của vụ án, lời khai của người làm chứng.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn Quy đã thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Điều 251 quy định:

“ 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) ...;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) ...;”

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do nghiện chất ma túy và hám lời bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo.

[5] Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo nghiện chất ma túy, có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho bị cáo, không áp dụng đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong cũ, giấy gói cũ. Là của bị cáo dùng thực hiện tội phạm, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 200.000 đồng. Là tiền bị cáo thu lợi bất chính từ việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Không xem xét truy thu số tiền 200.000 đồng đối với bị cáo, vì giá trị không lớn.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Do vậy bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo L V Q, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo L V Q, 07 ( Bảy) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 15/3/2019.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong cũ, giấy gói cũ. Tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Tiền 200.000 đồng. Tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Bị cáo L V Q phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2019/HSST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;