Bản án 71/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 71/2019/HS-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 29/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXXST-HS ngày 01/7/2019, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Nguyễn Thị Trúc T; Sinh năm 1983 Tại tỉnh Long An; Giới tính: Nữ; Hộ khẩu thường trú: xã B, huyện T, tỉnh L; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Văn T và bà Lương Thị V; chồng: Lê Tôn T (chết); Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: ngày 05/11/2008, Toà án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo bị bắt, giam, giữ từ ngày 07/3/2019 tại Nhà tạm giữ Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

2/ Họ và tên: Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1982 tại tỉnh Ninh Bình; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: thiên chúa; Hộ khẩu thường trú: xã K, huyện Y, tỉnh N; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Quang Đ và bà Nguyễn Thị L; Vợ: Nguyễn Thị H; Con: có 03 con (lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, giam, giữ từ ngày 07/3/2019, tại Nhà Tạm giữ Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 (Có mặt)

Địa chỉ: số 27/C2 hẻm 266 L, khu phố 3, phường A, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 06/3/2019, Nguyễn Thị Trúc T một mình từ phòng trọ của mình đi xe ôm đến khu vực đường Bùi Viện, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mua 07 gói ma túy tổng hợp của một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 560.000 đồng để sử dụng và bán lại kiếm lời. Sau khi mua, T cất số ma túy trên trong người rồi trở về phòng trọ của mình tại địa chỉ số 38 đường 904, khu phố 6, phường H, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 07/3/2019, do có bạn bè giới thiệu nên Nguyễn Quang Đ dùng số điện thoại của mình gọi cho T hỏi mua 01 gói ma túy tổng hợp với giá 100.000 đồng, T đồng ý và hẹn Đ đứng trước chợ đêm đường Man Thiện, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9 để bán ma túy cho Đ. Đ một mình điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Lead, màu xanh, biển số 35B2 – 328.97 đến trước cửa nhà số 214 Man Thiện, khu phố 5, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh thì gặp T. Lúc T bán cho Đ 01 gói ma túy thì bị Công an Quận 9 bắt quả tang. Công an thu giữ của Đ 01 gói ma túy, thu của T số tiền 100.000 đồng do vừa bán ma tuý cho Đ. Kiểm tra trong túi quần trước bên phải của T có 01 ví da màu nâu, bên trong có 06 gói tinh thể không màu. Theo T khai nhận, tinh thể không màu trên là ma túy tổng hợp. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Nguyễn Thị Trúc T và Nguyễn Quang Đ khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Căn cứ bản kết luận giám định số 686/KLGĐ-H ngày 14/03/2019, của phòng Kỹ thuật hình sự - Công An Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 1: có chữ ký của Nguyễn Quang Đ và hình dấu của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 9 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1714g, loại Methamphetamine.

- Gói 2: có chữ ký của Nguyễn Thị Trúc T và hình dấu của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 9 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6679g, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, màu trắng, số thuê bao 0903892475; 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA 1034 màu đen, số thuê bao 0973789334; Số tiền 100.000 đồng, loại tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 ví da màu nâu; 02 gói ma tuý sau giám định có chữ ký của giám định viên, cán bộ Công an Quận 9, Nguyễn Thị Trúc T và Nguyễn Quang Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã tiến hành nhập kho vật chứng.

- xe gắn máy hiệu Honda Lead, màu xanh biển số 35B2 – 328.97 do chị Nguyễn Thị H đứng tên chủ sở hữu. Chị Hà không biết việc Đ dùng xe gắn máy để đi mua ma túy. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã tiến hành trao trả xe gắn máy trên cho chị Nguyễn Thị H.

[2] Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 truy tố bị cáo Nguyễn Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Truy tố bị cáo Nguyễn Thị Trúc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Quang Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo Nguyễn Thị Trúc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trúc T từ 02 năm 06 (sáu) tháng đến 03 năm tù, bị cáo Nguyễn Quang Đ từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo Nguyễn Thị Trúc T và Nguyễn Quang Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Các bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì, các bị cáo nói lời sau cùng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Quang Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,1714 gram, là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Quang Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Bị cáo Nguyễn Thị Trúc T đã có hành vi mua ma tuý sau đó bán cho bị cáo Đ có khối lượng tổng cộng là 0,8393 gram, là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nên đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo Đ đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định. Đối với bị cáo T,vì động cơ vụ lợi, bản thân đã bị phạt tù có thời hạn một lần về hành vi “mua bán trái phép chất ma tuý” nhưng vẫn cố tình tiếp tục mua bán một lượng ma tuý nhất định. Từ các hành vi trên, thể hiện các bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử lý nghiêm các bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên, xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo Đ thuộc trường hợp phạm tội lần đầu nên cần xem xét cho các bị cáo được giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

[4] Do các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, bản thân bị cáo T đang bị bệnh nên Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động Samsung J7 Pro, màu trắng, số thuê bao 0903892475;

01 điện thoại di động hiệu Nokia TA 1034 màu đen, số thuê bao 0973789334; Đây là các phương tiện để các bị cáo liên lạc với nhau khi thực hiện hành vi phạm tội. Số tiền 100.000 đồng, loại tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Xe gắn máy hiệu Honda Lead, màu xanh, biển số 35B2 – 328.97 do chị Nguyễn Thị H đứng tên sở hữu, bị cáo Đ chồng chị Hà, đã sử dụng chiếc xe nêu trên khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh chi Hà khó khăn, các con còn nhỏ, chiếc xe là phương tiện duy nhất để nuôi sống cả gia đình nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã trả lại chiếc xe cho chị Nguyễn Thị H là có cơ sở chấp nhận.

- 01 ví da màu nâu, 02 gói ma tuý sau giám định có chữ ký của giám định viên, cán bộ Công an Quận 9, Nguyễn Thị Trúc T và Nguyễn Quang Đ không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

[6] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017):

1.1 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Đ phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1.2 Xử phạt: Nguyễn Quang Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019

2. Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017):

2.1 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Trúc T phạm “mua bán trái phép chất ma tuý” 2.2 Xử phạt: Nguyễn Thị Trúc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019.

3. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

3.1 Tịch thu tiêu hủy: 01 ví da màu nâu, 02 gói ma tuý sau giám định có chữ ký của giám định viên, cán bộ Công an Quận 9, Nguyễn Thị Trúc T và Nguyễn Quang Đ. (Theo lệnh nhập kho vật chứng số 36/19 ngày 24/4/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh);

3.2 Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung J7 Pro, màu trắng, số thuê bao 0903892475; 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA 1034 màu đen, số thuê bao 0973789334; Số tiền 100.000 đồng, loại tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. (Theo lệnh nhập kho vật chứng số 36/19 ngày 24/4/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh).

4. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với trường hợp vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;