TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 70/2021/HSST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 130/2018/HSST ngày 24 tháng 4 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-HS ngày 18/01/2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Phùng Quay S; Giới tính: Nam;
Tên gọi khác: không.
Sinh năm 1995, tại Ninh Thuận;
Nơi cư trú: 53, phố 2, ấp 2, xã Ph, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Hoa; - Tôn giáo: Phật;
Trình độ học vấn: không biết chữ; - Nghề nghiệp: làm rẫy; - Chức vụ: Không;
Họ tên cha: Phùng Phu H - Sinh năm 1963. Họ tên mẹ: Huỳnh A L - Sinh năm 1965. Họ tên anh: Phùng Quay C - Sinh năm 1986 Họ tên chị: Phùng Quay Ph - Sinh năm 1988 Họ tên em: Phùng Quay Nh - Sinh năm 2000. Họ tên em: Phùng Quay D - Sinh năm 2002. Họ tên em: Phùng Quay L - Sinh năm 2004.
Sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Mộng Ng, sinh năm 1994. Có 01 con sinh năm 2013.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28/12/2017, đến ngày 05/01/2018 bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B trong một vụ án khác.(có mặt)
Bị hại: 1.Anh Trần Văn Th, sinh năm 1993 Địa chỉ: 3B/1, tổ 6, Kp 3, P T, Tp B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt) 2.Anh Nguyễn Đình D, sinh năm 1997 Địa chỉ: KP.5, P L, Tp B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau
a)Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 22 giờ ngày 27/12/2017, Phùng Quay S điều khiển xe mô tô biển số 60M5-7114 đến quán “Táo đỏ”, địa chỉ số 3B/1, tổ 6, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đón chị Hoàng Thị Quỳnh Tr, sinh năm 1999, ngụ ấp 3, xã Phú Lợi, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai (bạn của S) thì nảy sinh mâu thuẫn cãi vã với anh Trịnh Văn Th, sinh năm 1995, ngụ tại khu phố 3, phường T (là nhân viên quán “Táo đỏ”), sau đó S chở Trang bỏ đi. Do bực tức chuyện cãi vã với anh Th, khoảng 0 giờ 30 phút ngày 28/12/2017, S rủ các đối tượng tên S, X và 01 người bạn của X (không rõ lai lịch) quay lại quán “Táo đỏ” mục đích để đánh nhân viên quán, cả nhóm đồng ý. Khi đến quán “Táo đỏ”, thấy quán đóng cửa, nhóm S nhặt gạch ven đường sát bên hông quán ném vào cửa kính của quán nhưng không gây hư hỏng gì. Lúc này, anh Th và anh V Như Q, sinh năm 1995, ngụ khu phố 3, phường T (là nhân viên quán) chạy ra mở cửa thì bị nhóm S dùng gạch ném nên anh Th, Q bỏ chạy vào trong quán thì bị nhóm S đuổi theo. Do nhân viên quán bỏ chạy hết nên S nhặt 01 thanh sắt dẹt dài khoảng 1m, bản rộng 5cm, S, X và bạn của X dùng gạch đập phá xe mô tô hiệu SH150i, biển số 60B-654.27 của anh Trần Văn T, sinh năm 1993, ngụ khu phố 3, phường T (chủ quán Táo đỏ) đang dựng sát cửa ra vào quán. Sau khi đập phá xe của anh Thắng, nhóm S quay ra ngoài quán thì có anh Nguyễn Đình D, sinh năm 1997, ngụ khu phố 5A, phường L, thành phố B (cũng là nhân viên quán) đang điều khiển xe mô tô hiệu Winner, biển số 60F2-47172 chạy về quán “Táo đỏ”, S hô cả nhóm đuổi theo, anh D bỏ xe chạy nên nhóm S tiếp tục đập phá xe của anh D gây hư hỏng. Ngày 28/12/2017, anh Thắng đến Công an phường T trình báo sự việc, Công an phường T đã lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành bắt khẩn cấp S để điều tra xử lý.
Vật chứng của vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu Wave 110 biển số 60M5-7114 là xe của S sử dụng đi đến quán “Táo đỏ” đập phá tài sản. Do chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.
- 01 cây gỗ dẹp bản rộng 15cm dày 02cm, dài khoảng 70cm; 01 cây rựa lưỡi bằng sắt dài 30cm, chuôi gỗ dài 50cm Cơ quan điều tra thu giữ tại hiện trường.
- 01 xe mô tô hiệu SH 150i, biển số 60B4-65427 màu xanh đen bị hư hỏng như sau: cong phuộc nhún bên phải; rách yên xe; vỡ chắn bùn sau, chắn gió giữa, ốp trước, ốp sau và mặt kính đồng hồ xe, là xe của anh Trần Văn Th, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Thắng.
- 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 60F2-47172 màu xanh đỏ đen bị hư hỏng như sau: vỡ dàn áo xe, đèn phụ, đèn hiệu, chụp pô; rách bao tay hai bên; gãy bát pô, là xe của anh Nguyễn Đình D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh D.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 268/TCKH-HĐĐG ngày 30/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “01 xe mô tô SH150i biển số 60B4- 654.27 và 01 xe mô tô Winner biển số 60F2-47172 có tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 6.577.200đồng (Sáu triệu năm trăm bảy mươi bảy nghìn hai trăm đồng)”.
Trách nhiệm dân sự: anh Trần Văn Th và anh Nguyễn Đình D yêu cầu bị cáo Phùng Quay S cùng đồng phạm bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại Bản cáo trạng số 129/CT-VKSBH ngày 09/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo Phùng Quay S, về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã thể hiện, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, khoản 2, điều 178; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Phùng Quay S với mức án 08(tám) đến 10(mười) tháng tù.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phùng Quay S khai nhận:
Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 28/12/2018, tại khu phố 3, phường T, thành phố B, Phùng Quay S đã có hành vi sử dụng thanh sắt đập phá 01 xe môtô SH 150i, biển số 60B4-65427 của anh Trần Văn Th và 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 60F2-47172 của anh Nguyễn Đình D gây thiệt hại tổng giá trị là 6.577.200 đồng (Sáu triệu năm trăm bảy mươi bảy nghìn hai trăm đồng) thì bị bắt giữ xử lý.
Theo kết luận định giá trị tài sản bị cáo đã làm hư hỏng có giá trị là 6.577.200 đồng (Sáu triệu năm trăm bảy mươi bảy nghìn hai trăm đồng).
Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác thể hiện tại hồ sơ vụ án, từ đó đã có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Qua xem xét nhn v hnh vi của bị co xt thấy Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phùng Quay S, về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là đúng căn cứ pháp luật.
[3]Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi phạm tội cua bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến ti sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Trong thời gian được tại ngoại, bị cáo không chấp hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, gây khó khăn cho Tòa án trong việc tống đạt các quyết định cho bị cáo và bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần phải có một mức án nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiêân, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quy định tại điểm h, i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần về mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
[4]Về xử lý vật chứng:
Tuyên tịch thu tiêu hủy: Tịch thu, tiêu hủy 01 cây gỗ dẹp bản rộng 15cm dày 02cm, dài khoảng 70cm; 01 cây rựa lưỡi bằng sắt dài 30cm, chuôi gỗ dài 50cm do không còn giá trị sử dụng.
- 01 xe mô tô hiệu SH 150i, biển số 60B4-65427 màu xanh đen bị hư hỏng như sau: cong phuộc nhún bên phải; rách yên xe; vỡ chắn bùn sau, chắn gió giữa, ốp trước, ốp sau và mặt kính đồng hồ xe, là xe của anh Trần Văn Th, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Th là phù hợp.
- 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 60F2-47172 màu xanh đỏ đen bị hư hỏng như sau: vỡ dàn áo xe, đèn phụ, đèn hiệu, chụp pô; rách bao tay hai bên; gãy bát pô, là xe của anh Nguyễn Đình D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh D là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Phùng Quay S đồng ý bồi thường cho anh Trần Văn Thắng và anh Nguyễn Đình Dự theo yêu cầu nên ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo
[6]Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Đối với các đối tượng tên S, X và 01 người bạn của X, do chưa xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh xử lý sau Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phùng Quay S phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” Căn cứ khoản 1 điều 178; điểm i, h, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phùng Quay S 10(mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
Về xử lý vật chúng:
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: Tịch thu, tiêu hủy 01 cây gỗ dẹp bản rộng 15cm dày 02cm, dài khoảng 70cm; 01 cây rựa lưỡi bằng sắt dài 30cm, chuôi gỗ dài 50cm do không còn giá trị sử dụng.
(Tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/4/2018 của chi cục Thi hành án dân sự TP. B).
Về trách nhiệm dân sự:
Áp dụng điều 584, điều 589 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Phùng Quay S bồi thường cho anh Trần Văn Th số tiền 1.411.200đ (Một triệu bốn trăm mười một nghìn hai trăm đồng) và bồi thường cho anh Nguyễn Đình D số tiền 5.166.000đ (Năm triệu một trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án phí Hình sự sơ thẩm:
- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Án phí Dân sự:
Bị cáo phải chịu 328.860đ (Ba trăm hai mươi tám nghìn tám trăm sáu mươi đồng).
Quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 70/2021/HSST ngày 02/02/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 70/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về