Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2021/QĐXX - ST ngày 30 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Anh Lê Công H - Sinh năm 1971 “ Vắng mặt” Nơi ĐKHKTT: Số nhà 141 H, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: Số nhà 105 C H, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Chị Thiều Thị T - Sinh năm 1982 “ Có mặt” Nơi ĐKHKTT: Số nhà 141 H, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: Số nhà 105 C H, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Lê Công H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Thiều Thị T kết hôn với nhau vào ngày 28 tháng 10 năm 2010, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị T đi theo tôn giáo tín ngưỡng mà không được pháp luật cho phép, tự ý bỏ việc cơ quan, bỏ việc làm, không chăm lo đến cuộc sống gia đình, không làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Mặc dù hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng chị T vẫn không từ bỏ. Nay anh H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh H đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Lê Ánh Thảo N sinh ngày 02/6/2011, và cháu Lê Thế V sinh ngày 08/8/2013. Ly hôn anh H đề nghị Tòa án giải quyết, giao hai con cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/tháng (2 cháu là 2.000.000đ/tháng), thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi các cháu thành niên.

Về tài sản và công nợ: Anh H không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh, chị Thiều Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn chị T đồng ý như anh H đã trình bày. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2021 do công việc đang làm đi sớm về muộn không lo được cho con nên chị đã xin nghỉ việc để có thời gian chăm sóc các con, từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nay anh H có đơn xin ly hôn, chị T xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn chị T không đồng ý ly hôn.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung: Cháu Lê Ánh Thảo N sinh ngày 02/6/2011, và cháu Lê Thế V sinh ngày 08/8/2013. Nếu anh H cương quyết ly hôn, chị T đề nghị Tòa án giải quyết con theo ai thì do người đó nuôi dưỡng, chị T yêu cầu được nuôi dưỡng hai cháu, yêu cầu anh H cấp dưỡng mỗi cháu 2.000.000đ/tháng.

Về tài sản, công nợ: Tại bản tự khai chị Thanh đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung theo quy định của pháp luật, chị sẽ có đơn yêu cầu và chứng cứ kèm theo để chứng minh yêu cầu phân chia tài sản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 28/6/2021. Nếu quá thời hạn trên mà chị không nộp thì coi như chị từ bỏ yêu cầu phân chia tài sản.

Hết thời hạn do chị T tự cam kết nhưng chị T vẫn không nộp đơn yêu cầu phân chia tài sản, tại phiên hòa giải ngày 27/7/2021, chị T vẫn không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản. Sau khi Tòa án giải thích về quyền được yêu cầu của chị, nhưng chị T vẫn không yêu cầu và chị có tự viết thêm vào biên bản hòa giải nội dung: “ mặc dù tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng tôi yêu cầu anh H giao cho tôi 500.000.000đ để tôi mua nhà và nuôi con”.

Như vậy: Cho đến thời điểm Tòa án ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, chị T vẫn không có đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo để yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng, tại phiên tòa chị T cho rằng do chị chưa thu thập được chứng cứ về tài sản chung của vợ chồng, bao giờ thu thập được chị sẽ nộp đơn sau. Do chị T không có căn cứ và không có đơn yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh H và chị T sinh sống tại địa phương đến đầu năm 2021 có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được. Nay anh H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh H và chị T có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Xử cho anh H được ly hôn chị T, giao cháu Lê Thế V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lê Ánh Thảo N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay anh H có đơn xin xử vắng mặt với lý do đang phải cách ly do đi công tác vào vùng dịch. Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh H là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Lê Công H và chị Thiều Thị T kết hôn với nhau năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Anh H cho rằng chị T tự ý bỏ việc đi theo tôn giáo tín ngưỡng mà không được pháp luật cho phép hoạt động, trong khi chị T cho rằng vì bận chăm sóc hai con nên chị mới bỏ việc. Mặc dù về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh H và chị T còn có ý kiến khác nhau, nhưng qua quá trình giải quyết vụ án, giữa hai anh chị có mâu thuẫn trầm trọng, hai anh chị không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Hoàng tha thiết xin được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa anh H và chị T đã đến mức trầm trọng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho anh H được ly hôn chị T là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Anh H và chị T có 02 con chung là Cháu Lê Ánh Thảo N sinh ngày 02/6/2011, và cháu Lê Thế V sinh ngày 08/8/2013. Ly hôn anh H đề nghị Tòa án giải quyết, giao hai con cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/tháng (2 cháu là 2.000.000đ/tháng). Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 2.000.000đ/tháng.

HĐXX xét thấy: Cả anh H và chị T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con chưa thành niên, mặc dù cả hai cháu Lê Ánh Thảo N và cháu Lê Thế V đều có nguyện vọng được ở với chị T, tuy nhiên, hiện chị T đang không có việc làm và thu nhập không ổn định, trong khi anh H đang công tác tại Công ty Điện Lực Thanh Hóa với mức lương ổn định, do đó để đảm bảo cuộc sống cho các cháu, anh H cũng có nguyện vọng được nuôi con nên cần giao cho anh H trực tiếp nuôi một cháu, chị T trực tiếp nuôi một cháu là phù hợp quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng: Do mỗi người trực tiếp nuôi một cháu nên các bên không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp pháp luật.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho anh Lê Công H được ly hôn chị Thiều Thị T.

Về con: Công nhận cháu Lê Ánh Thảo N sinh ngày 02/6/2011, và cháu Lê Thế V sinh ngày 08/8/2013 là con chung của anh H và chị T. Giao cháu Lê Thế V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lê Ánh Thảo N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Thiều Thị T và anh Lê Công H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Anh Lê Công H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí do chị Lê Thị Hương đã nộp thay theo biên lai số AA/2019/0012568 ngày 15/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (anh H đã nộp đủ án phí).

Chị Thiều Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lê Công H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 31/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;