Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh châp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHÂP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số : 55/2021/TLST - HNGĐ, ngày 23 tháng 2 năm 2021 vụ tranh chấp Hôn nhân và gia đình “Xin ly hôn, về nuôi con chungtheo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 116/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 07 tháng 5 năm 2021, giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm: 1996; địa chỉ: ấp Thạnh P, xã Thạnh H, huyện G, tỉnh K (có mặt).

2.Bị đơn: Anh Võ Quang G, sinh năm: 1991; địa chỉ: ấp Thạnh P, xã Thạnh H, huyện G, tỉnh K (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày: Chị và anh Võ Quang G trước khi lấy nhau là do mai mối và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 2013, có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh P, huyện G, tỉnh K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh G thiếu tinh thần trách nhiệm, thường xuyên nhậu nhẹt không quan tâm chăm sóc vợ con, giao con cho một mình chị lo, đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh G chỉ hứa mà không sửa đổi bản thân. Giữa chị và anh G không còn chung sống với nhau kể từ năm 2018 cho đến nay. Nay chị thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hôn nhân không thể tiếp tục duy trì nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh G; Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng co 02 con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 25/01/2014; Võ Ngọc H, sinh ngày 26/6/2017; hiện con tên H đang sống với chị, con tên H đang sống với anh G, chị - 1 - xin được tiếp tục nuôi dưỡng con tên H, giao con tên H cho anh G nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 03/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng với bà Trần Thị Lắng (mẹ ruột anh Giàu).

Trong quá trình chung sống vợ chồng G ở chung nhà với bà, sau đó vợ chồng cùng nhau đi Sài Gòn làm ăn, bà nghe G kể vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bà có khuyên vợ chồng sống với nhau cho hòa thuận nuôi dạy con cái nhưng không ai chịu nghe, theo bà thì mâu thuẫn vợ chồng của G ngày càng trầm trọng, bà cũng rất muốn vợ chồng G về chung sống với nhau làm ăn nuôi dạy con cái nhưng chị D hiện nay cương quyết xin ly hôn với G con bà nên việc G và D đoàn tụ là rất khó khăn.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiến hành đúng theo quy định của pháp luật, xác định đúng quan hệ tranh chấp, đương sự trong vụ án và tiến hành các thủ tục tố tụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Các đương sự cũng chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu còn chậm cần phải khắc phục.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay đối chiếu với các quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng nhận thấy như sau: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay đối chiếu với các quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng nhận thấy như sau:

Về hôn nhân: Chị D và anh G trước khi cưới là do mai mối và được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2013, có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cãi nhau, vợ chồng sống ly thân và hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả, nay chị D cương quyết xin ly hôn xét thấy hôn nhân của chị D và anh G đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị D và anh G ly hôn; Về con chung: Anh chị có hai con chung, hiện mỗi người nuôi một đứa, chị D xin ly hôn và có yêu cầu giao cháu H cho anh G tiếp tục nuôi, chị nuôi cháu H, Tòa án đã tống đạt nhưng anh G không có ý kiến. Đề nghị Tòa án xem xét và chấp nhận yêu cầu của chị D; Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về án phí: Chị D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án tranh châp hôn nhân và gia đình “Xin ly hôn, về nuôi con chung” giữa chị và anh G. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng là đúng trình tự, thủ tục tố tụng.

- Về sự có mặt của đương sự: Anh Danh G đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng nhưng anh không làm bản tự khai, không tham gia phiên tiếp cận công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử thì anh có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt cuả anh G không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điêu 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh G.

[2]. Về nội dung:

{2.1} Về hôn nhân: Chị D và anh G trước khi lấy nhau là do mai mối và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2013, anh chị có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh P, huyện G nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Tuy nhiên, quá trình chung sống anh chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Chị D cũng tạo nhiều cơ hội hàn gắn nhưng cho đến nay vẫn không có kết quả, mạnh ai người đó sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Xét thấy hôn nhân của anh chị phải được xây dựng trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, bền vững lâu dài, vợ chồng cùng quan tâm chăm sóc lẫn nhau và nuôi dạy con cái, kể từ khi chị D và anh G sống ly thân năm 2018 cho đến nay, anh G cũng không thể hiện sự quan tâm chăm sóc đối với vợ con, bỏ mặc mạnh ai người đó sống. Tại phiên tòa hôm nay chị D cương quyết xin ly hôn nên Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn giữa chị D và anh G đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Võ Quang G.

{2.2} Về con chung : Chị D và anh G có 02 con chung tên Võ Ngọc H, sinh ngày 25/01/2014; Võ Ngọc H, sinh ngày 26/6/2017; hiện con tên H đang sống với chị D, con tên H đang sống với anh G, chị D xin được tiếp tục nuôi dưỡng con tên H, giao con tên H cho anh G nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con; Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý cho anh G nhưng anh G không thể hiện ý kiến về việc chị D xin ly hôn và mỗi người nuôi một đứa con. Kể từ thời điểm chị D và anh G sống ly thân cho đến nay, anh G và chị D vẫn chăm sóc cho các cháu phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Tại bản tự khai ngày 08/2/2021 cháu H cũng có nguyện vọng khi cha mẹ ly hôn cháu xin được ở với mẹ. Do đó, áp dụng khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình xử giao cháu H cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu H cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành (trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật). Chị D, anh G có quyền đến thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

{2.3} Về cấp dưỡng: Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình quy định cha mẹ không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị D và anh G mỗi người nuôi một đứa và không ai yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

{2.4} Về tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điêu 147 của Bộ luật tố tụng dân sư, điểm a khoản 5 Điêu 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:

Án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị D phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị D đã nộp theo biên lai thu tiền số 2113 ngày 23/2/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng. Chị D đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điêu 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điêm a khoản 5 Điêu 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân : Xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Võ Quang G.

2. Về con chung: Xử giao cháu Võ Ngọc H, sinh ngày 25/01/2014 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Võ Ngọc H, sinh ngày 26/6/2017 cho anh Võ Quang G trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi (Trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định cuả pháp luật ) không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh G, chị D có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nơ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị D phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị D đã nộp theo biên lai thu tiền số 2113 ngày 23/2/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng.

Chị D đã nộp đủ.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày; chị D được tính kể ngày tuyên án (ngày 28/5/2021). Anh G được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết của Tòa án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh châp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;