Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 70/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 565/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 130/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1987. Địa chỉ: 431/13 Ấp C, xã P, huyện B, Tp. C.

(Có mặt) Bị đơn: Ông Triệu Quang P, sinh năm 1986.

Địa chỉ: 431/13 Ấp C, xã P, huyện B Bè, Tp. C. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 11 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bà Nguyễn Thị G là nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P tự nguyện tiến đến hôn nhân năm 2007, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 01/2007 do Uỷ ban nhân dân xã P, huyện B, Thành phố C cấp ngày 27/02/2007.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 12 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông P ngoại tình với người phụ nữ khác. Bà G đã nhiều lần khuyên can và tha thứ nhưng ông P không sửa đổi dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau.

Nay, bà G xác định cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Triệu Quang P để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có hai người con chung tên Triệu Nguyễn Gia T, sinh ngày 11/02/2008 và Triệu Nguyễn Gia Q, sinh ngày 30/8/2016. Bà G yêu cầu được trực tiếp nuôi cả hai con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà G xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Nợ chung: Bà G xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 26/12/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Triệu Quang P trình bày:

Ông P và bà G qua thời gian tìm hiểu, cả hai tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện B ngày 27/02/2007. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do ông P ít quan tâm đến vợ con và ngoại tình. Ông P không muốn ly hôn vì ông muốn gia đình đoàn tụ để ông có cơ hội được sửa chữa sai lầm của mình. Trong trường hợp bà G vẫn kiên quyết ly hôn thì ông P chấp nhận theo yêu cầu của bà G.

Về con chung: Có hai người con chung tên Triệu Nguyễn Gia T, sinh ngày 11/02/2008 và Triệu Nguyễn Gia Q, sinh ngày 30/8/2016. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ông P ly hôn với bà G thì ông P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi trẻ Triệu Nguyễn Gia Q.

Về tài sản chung: Ông P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Nợ chung: Ông P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án thì từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa. Đối với bị đơn vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho ly hôn với ông Triệu Quang P; giao hai con chung Triệu Nguyễn Gia T, sinh ngày 11/02/2008 và Triệu Nguyễn Gia Q, sinh ngày 30/8/2016 cho bà G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 22 quyển số 01/2007, do Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, Thành phố C cấp ngày 27/02/2007 thì bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P có quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ông Triệu Quang P cư trú tại huyện B, Thành phố C. Nay bà G có đơn xin ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Triệu Quang P đã được Toà án tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên toà nhưng ông P vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là hoàn toàn đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về yêu cầu của đương sự:

Nguyên nhân bà Nguyễn Thị G xin ly hôn ông Triệu Quang P là do trong cuộc sống vợ chồng giữa bà G và ông P phát sinh mâu thuẫn do ông P ngoại tình, bà G đã nhiều lần khuyên can và tha thứ nhưng ông P không sửa đổi, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi nhau; mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không khắc P được.

Bị đơn ông P mong muốn đoàn tụ với bà G, tuy nhiên trường hợp bà G kiên quyết ly hôn thì ông P đồng ý ly hôn với bà G.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng và quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình….” Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “...Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Hội đồng xét xử nhận định: Mâu thuẫn giữa vợ chồng bà G và ông P xảy ra là do lỗi của ông P, bà G đã tha thứ nhưng ông P không sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng, khả năng hàn gắn không còn, đời sống hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị G đối với ông Triệu Quang P.

Về con chung: Bà G và ông P có hai người con chung tên Triệu Nguyễn Gia T, sinh ngày 11/02/2008 và Triệu Nguyễn Gia Q, sinh ngày 30/8/2016. Sau khi ly hôn bà G yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung; không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Ông Triệu Quang P yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Gia Q, tuy nhiên ông P không đến tham gia phiên tòa, không thể hiện nguyện vọng mong muốn được quyền trực tiếp nuôi con của ông P tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, qua ghi nhận ý kiến thì trẻ Gia T có nguyện vọng được ở với mẹ trong trường hợp ba mẹ của trẻ ly hôn, đồng thời trẻ Gia Q là bé gái nên cần có sự chăm sóc, dạy dỗ của người mẹ. Do đó, để tạo điều kiện cho sự phát triển bình thường về thể chất lẫn tinh thần cũng như không gây ảnh hưởng tình cảm anh em ruột của con chung vì hiện nay các con chung đang ở với bà G nên giao hai trẻ Gia T và Gia Q cho bà G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

Ghi nhận bà G không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

[3] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng do bà Nguyễn Thị G nộp.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị G được ly hôn với ông Triệu Quang P. Về con chung: Giao hai trẻ Triệu Nguyễn Gia T, sinh ngày 11/02/2008 và Triệu Nguyễn Gia Q, sinh ngày 30/8/2016 cho bà Nguyễn Thị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ông Triệu Quang P không cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có yêu cầu của bà Nguyễn Thị G. Việc giao nhận con chung do hai bên đương sự tự thi hành hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị G và ông Triệu Quang P xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

2/ Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng do bà Nguyễn Thị G nộp, được khấu trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí mà bà G đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0034675 ngày 09/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà G đã nộp đủ án phí.

3/ Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị G được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; ông Triệu Quang P được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4/ Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:70/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;