Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 70/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 25/8/2020, tại Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 281/2020/TLST- HNGĐ ngày 19/6/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31/7/2020 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm: 1995 Địa chỉ: ấp T, xã X, huyệnXL, tỉnh ĐN

- Bị đơn: Anh Phạm Hữu Q, sinh năm: 1993 Địa chỉ: ấp G, xã X, huyện XL, tỉnh ĐN (Chị Bông và anh Quyền vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai bổ sung nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày: Trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, chị và Phạm Hữu Q chung sống với nhau năm 2019 đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Vợ chồng chung không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau và xảy ra xô sát, anh Quyền có người phụ nữ khác. Chị và anh Quyền đã ly thân từ ngày 03/7/2019 đến nay. Thời gian ly thân anh chị không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Quyền.

Về con chung: Chị và anh Quyền có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày 03/7/2019. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Quyền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Nợ chung: Không có Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Phạm Hữu Q trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị B về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Theo Anh cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ là xích mích vài chuyện lặt vặt. Chị Bông nghe lời người khác nên nghi ngờ anh có mối quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng xảy ra cự cãi, ngoài ra chị Bông hay cáu gắt anh khi anh làm việc không vừa ý. Đến tháng 07 năm 2019 chị Bông về nhà ngoại để sinh con và ở đó cho đến nay. Thời gian chị Bông sinh con, anh bị té xe nên không chăm vợ được. Thời gian sau anh có về thăm vợ con 02 tuần 01 lần nhưng chị Bông và gia đinh bên ngoại không cho anh ở lại chơi với con. Nay chị Bông yêu cầu ly hôn với anh, anh không đồng ý vì anh vẫn còn thương vợ con, anh mong muốn được đoàn tụ.

Về con chung: Trường hợp buộc phải ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày 03/7/2019. Anh không yêu cầu chị Bông cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp Hội đồng xét xử giao con chung cho chị Bông nuôi dưỡng anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 3.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền thụ lý vụ án, tư cách những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, tuân theo đúng quy định của pháp luật về tố tụng. Về việc gửi thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và tống đạt cho đương sự đúng thời hạn theo quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo thời hạn theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy mâu thuẫn của chị Bông và anh Quyền đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho chị Bông được ly hôn với anh Quyền.

Về con chung: Xét thấy con chung là cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày 03/7/2019 dưới 36 tuổi nên rất cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ. Do đó giao cháu Vy cho chị Bông nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị B có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Phạm Hữu Q, do đó xác định chị Bông là nguyên đơn, anh Quyền là bị đơn.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị B và anh Phạm Hữu Q có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó xét xử vắng mặt chị Bông và anh Quyền tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B và anh Phạm Hữu Q tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Bông nhận thấy: Chị Bông cho rằng vợ chồng chung sống không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau và xảy ra xô sát, anh Quyền có người phụ nữ khác. Anh Quyền không đồng ý ly hôn vì anh vẫn còn thương vợ. Tuy nhiên anh cũng thừa nhận cuộc sống chung vợ chồng có mâu thuẫn là do chị Bông nghe lời người khác nên nghi ngờ anh có mối quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng xảy ra cự cãi, ngoài ra chị Bông hay cáu gắt anh khi anh làm việc không vừa ý. Đến tháng 07 năm 2019 chị Bông về nhà ngoại để sinh con và ở đó cho đến nay. Thời gian chị Bông sinh con, anh bị té xe nên không chăm vợ được. Thời gian sau anh có về thăm vợ con 02 tuần 01 lần nhưng chị Bông và gia đình bên ngoại không cho anh ở lại chơi với con. Xét thấy, thời gian anh chị ly thân đã lâu, trong thời gian ly thân bản thân anh chị đã cố gắng hòa giải đoàn tụ , quá trình giải quyết vụ án Tòa án cũng đã tiến hành hàn gắn tình cảm cho anh chị nhưng không có kết quả. Như vậy, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của anh chị mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nên chấp nhận cho chi Bông được ly hôn với anh Quyền là phù hợp.

[4] Về con chung: Khi ly hôn anh chị đều có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày: 03/7/2017. Xét thấy, hiện nay cháu Vy dưới 36 tháng tuổi nên rất cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ. Do đó, giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Khả V cho chị Bông nuôi dưỡng là phù hợp Chị Bông không yêu cầu anh Quyền cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên tại biên bản hòa giải ngày 15/7/2020 anh Quyền trình bày nếu trường hợp Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Ngọc Khả V cho chị Bông nuôi dưỡng, anh sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng, nên ghi nhận sự tự nguyện của anh Quyền

[5] Về tài sản chung: Không có, nên không giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có, nên không giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Bông phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Anh Quyền phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm vì có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 28, Điều 35; Điều 39, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 của Luật Hôn nhân gia đình 2014; của Luật Hôn nhân gia đình 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án:

-Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B được ly hôn với anh Phạm Hữu Q.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày: 03/7/2019 cho chị Nguyễn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Anh Phạm Hữu Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Ngọc Khả V, sinh ngày 03/7/2019 hàng tháng số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) cho đến khi cháu Vy đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự Sau khi ly hôn quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật công nhận và bảo vệ.

3. Về tài sản chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.

4. Nợ chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0009359 ngày 19/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc. Anh Phạm Hữu Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) vì có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị B và anh Phạm Hữu Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:70/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;