Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 70/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 168/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Tuyết H, sinh năm 1980. (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp K, xã L, huyện T1, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Phương T, sinh năm 1985. (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp K, xã L, huyện T1, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 18/5/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H trình bày: Chị và anh Nguyễn Phương T thành hôn vào năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện T1, tỉnh Vĩnh Long ngày 16/6/2005. Thời gian vợ chồng chung sống khoảng 15 năm lúc đầu có hạnh phúc, sau thường phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vợ chồng đã ly thân nhau khoảng 02 năm nay. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, chị yêu cầu được ly hôn với anh T. Về con chung, vợ chồng chị có 01 con chung tên Nguyễn Đức H1, sinh ngày 06/12/2005 hiện đang sống chung với chị. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung chị H không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 13/8/2020 bị đơn anh Nguyễn Phương T trình bày: Anh thống nhất như lời trình bày của chị H về thời gian thành hôn, con chung, tài sản chung. Do thời gian vợ chồng sống chung bất đồng quan điểm nên chị H bỏ đi, vợ chồng cắt đứt quan hệ từ tháng 4/2019 đến nay, cả hai không quan tâm liên lạc với nhau nên chị H xin ly hôn, anh đồng ý. Về con chung cháu Nguyễn Đức H1 có nguyện vọng sống chung với mẹ anh không có ý kiến. Tài sản chung nợ chung anh T không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 13/8/2020 ông Nguyễn Văn H2 là cha ruột của anh Nguyễn Phương T trình bày: Thời gian vợ chồng chị H, anh T sống chung ông cất nhà cho ở riêng, không biết xảy ra mâu thuẫn gì chị H bỏ đi, vợ chồng cắt đứt quan hệ. Còn cháu H1 hiện nay đã lớn, cháu tự chăm sóc được cho bản thân, hiện cháu đã nghỉ học sống chung ông bà ngoại, cháu phát triển bình thường.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến trình bày. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Ôn phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa là không tuân thủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về hướng giải quyết vụ án:

Đề nghị áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Đặng Thị Tuyết H được ly hôn với anh Nguyễn Phương T.

- Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Đức H1, sinh ngày 06/12/2005 cho chị Đặng Thị Tuyết H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Phương T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền nghĩa vụ thăm nôm, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Tuyết H có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự có mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H có đơn xin vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Phương T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Tuyết H và anh Nguyễn Phương T thành hôn năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện T1, tỉnh Vĩnh Long ngày 16/6/2005 nên xem đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Quá trình chung sống, chị Đặng Thị Tuyết H và anh Nguyễn Phương T trình bày vợ chồng sống chung phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nên vợ chồng cắt đứt quan hệ từ tháng 4/2019 đến nay. Mặc khác, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án triệu tập nguyên đơn, bị đơn đến tham gia hòa giải nhằm giúp đỡ chị H, anh T đoàn tụ nhưng chị H có văn bản đề nghị vắng mặt và anh T vắng mặt không lý do. Chứng tỏ, chị H và anh T không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Giữa chị Đặng Thị Tuyết H và anh Nguyễn Phương T có 01 con chung tên Nguyễn Đức H1 hiện đang sống chung với chị H. Cháu H1 có văn bản trình bày ý kiến muốn tiếp tục sống chung với mẹ và anh T cũng không có ý kiến về việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy để ổn định cuộc sống, tinh thần và theo nguyện vọng của con chung từ 07 tuổi trở lên, cần giao con chung là Nguyễn Đức H1, sinh ngày 06/12/2005 cho chị Đặng Thị Tuyết H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Đặng Thị Tuyết H là người đang trực tiếp nuôi con nhưng chị H không yêu cầu anh Nguyễn Phương T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H và anh Nguyễn Phương T không yêu cầu giải quyết nên không xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát có căn cứ chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4, Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị Tuyết H được ly hôn với anh Nguyễn Phương T.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Đức H1, sinh ngày 06/12/2005 cho chị Đặng Thị Tuyết H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh Nguyễn Phương T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Đặng Thị Tuyết H có nghĩa vụ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0016130 ngày 21/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, chị H đã nộp đủ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:70/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;