Bản án 70/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại Nhà văn hóa TDP 5, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Lê B, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1992 tại Quảng Bình; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 8, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Minh C, sinh năm 1958 con bà Lê Thị Thu V, sinh năm: 1958; gia đình có 02 anh em, B là con út, có vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; có 01 con Nguyễn Thị Minh L, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 15/01/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 12 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành án tại Trại giam ĐS đến ngày 20/9/2013 ra trại. Ngày 19/11/2015 bị Ủy ban nhân dân phường Đ xử phạt hành chính số tiền 4.000.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng mang theo công cụ hỗ trợ.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. Có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất của Tòa án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Quý T, sinh ngày: 23/10/1985; địa chỉ: TDP 14, phường N, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

2. Chị Võ Thị Đ, sinh ngày 06/5/1986; địa chỉ: TDP 2, Thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Vũ Thị Dạ P, sinh ngày 01/02/1992; địa chỉ: TDP 2, phường N, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

2. Anh Trương Hồng S, sinh ngày 14/01/1983; địa chỉ: TDP 6, phường N, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Không

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13h 15’ ngày 10/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của Nguyễn Lê B tại TDP 7, phường B, TP.Đ, Quảng Bình. Quá trình khám xét Nguyễn Lê B lấy trên tường nhà vệ sinh 01 gói ni lon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng có ký hiệu WY giao nộp cho lực lượng Công an, B khai nhận đó là ma túy loại hồng phiến, B cất giấu để sử dụng. Nguồn gốc số ma túy nói trên, khoảng 18h ngày 08/6/2019, B đi bộ đến khu vực ngã ba B thì gặp một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ, B đặt vấn đề hỏi mua ma túy loại hồng phiến rồi đưa cho người đàn ông đó số tiền 500.000 đồng. Người đàn ông đó đưa cho Nguyễn Lê B một gói ni lon màu trắng bên trong chứa 04 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine, B đưa gói ma túy trên về phòng trọ cất giấu. Khoảng 20h 30phút ngày 09/6/2019, B lấy 02 viên ma túy ra cùng sử dụng với Hoàng Qúy T là bạn của B, 02 viên ma túy còn lại Nguyễn Lê B đã giao nộp cho Công an huyện B khi bị khám xét.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng có ký hiệu WY.

Tại bản kết luận giám định số: 584/GĐ-PC 09 ngày 18/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận mẫu ký hiệu A gửi giám định chứa trong một gói ni lon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng có ký hiệu WY là Methamphetamine, khối lượng 0,199 gam (không phẩy một trăm chín mươi chín gam).

Tại bản cáo trạng số: 68/THQCT-ĐT-MT ngày 31 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới truy tố bị cáo Nguyễn Lê B ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đ để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Nguyễn Lê B đã thực hiện. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX, xét xử bị cáo đúng như toàn bộ nội dung bản cáo trạng; quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hợp tác tích cực với cơ quan Điều tra trong quá trình giải quyết vụ án, mẹ bị cáo là bà Lê Thị Thu V có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đây là các tình tiết giảm nhẹ cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Lê B 12 - 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm, không có thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lê B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tàng trữ trong người 02 viên ma tuý loại hồng phiến có trọng lượng là 0,199gam Methamphetamine. Hành vi của Nguyễn Lê B trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma tuý, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại Điểm c, Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đúng như bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa hôm nay, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ công bố bản Cáo trạng Nguyễn Lê B đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến cùng tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp cả về mặt thời gian, địa điểm và diễn biến quá trình phạm tội. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định:

Ngày 10/6/2019 Nguyễn Lê B đã thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trong nhà 02 viên ma tuý loại hồng phiến có trọng lượng là gam Methamphetamine. Hành vi của Nguyễn Lê B trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma tuý đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố.

[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Lê B là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ ma túy là chất độc hại gây nghiện, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, hành vi của bị cáo đã xâm hại chính sách độc quyền của Nhà nước về ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác.

Bị cáo Nguyễn Lê B đã ở độ tuổi chính chắn hiểu biết pháp luật, bị cáo đũ nhận thức để hiểu biết pháp luật. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập, cải tạo phấn đấu trở thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Như B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình cũng xem xét cho bị cáo một số tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lê B đã có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan Cảnh sát điều tra. Mẹ bị cáo là bà Lê Thị Thu V có công với các mạng được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự cho bị cáo theo quy định tại Điểm s Khoản 1và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo Nguyễn Lê B còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy, bị cáo không có việc làm, không có tài sản, mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ sử dụng cho bản thân chứ không có mục đích nào khác, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Lê B.

[7] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì đã được niêm phong số: 584/GĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình hoàn trả sau giám định bên trong có chứa 0,113gam Methamphetamine.

[8] Liên quan đến vụ án có một người dàn ông bán ma túy cho Nguyễn Lê B nhưng B không biết họ tên, nơi cư trú của đối tượng nên không có cơ sở để xử lý đối tượng, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

[9] Án phí Hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Nguyễn Lê B phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Lê B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về Điều luật áp dụng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê B 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 20/8/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Lê B 45 ngày theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để đảm bảo thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì đã được niêm phong số: 584/GĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình hoàn trả sau giám định bên trong có chứa 0,113gam Methamphetamine Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.

5. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Nguyễn Lê B phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/11/2019). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;