TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 69/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 398/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2024/QĐXXST-HS ngày 05/02/2024, đối với bị cáo:
Huỳnh Thị N1, sinh ngày 28/02/1986, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Tổ 10 KV4, phường HS, thành phố H, TT. Huế; nghề nghiệp: Thợ may; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh T1 (đã chết) và bà Lý Thị X; sinh năm 1951; chồng: không; con: có 01 con sinh năm 2015;
* Quá trình nhân thân: : Lúc nhỏ sống với gia đình, học đến lớp 07/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình.
Ngày 25/7/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự số 32/2019/HS-ST.
Tiền án: 01 tiền án về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự số 32/2019/HS- ST.
Tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/10/2023 đến nay. Có mặt - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Trần Thanh N2; sinh năm 2005; địa chỉ Tổ 9, KV4, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt
+ Anh Trần Thanh V; sinh năm 1973; địa chỉ Tổ 9, KV4, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt
+ Chị Huỳnh Thị T2; sinh năm 1984; địa chỉ Tổ 7, KV3, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt
+ Bà Lý Thị X; sinh năm 1951;địa chỉ Tổ 10, KV4, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có đơn xin xét xử vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ 45 phút ngày 23/02/2023, tại nhà Huỳnh Thị N1, địa chỉ tổ 10, KV4, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Trần Thanh N2 (sinh năm 2005, thường trú tại tổ 9, KV4, phường HS, thành phố H, đến ghi số đề giúp bố mình là ông Trần Thanh V, sinh năm 1973, thường trú tại tổ 9, KV4, phường HS, thành phố H) đến gặp Huỳnh Thị N1 để ghi số đề với số cược 52 cho đài Miền Trung (gồm 03 đài Quảng Bình, Bình Định, Quảng Trị) với số tiền 300.000 đồng (mỗi đài 100.000 đồng). Khi N2 đang đọc số cho N1 ghi thì bị lực lượng Công an phường HS, thành phố H kiểm tra phát hiện lập biên bản.
Ngoài ra, kiểm tra tại vị trí N1 ngồi ghi số đề thu giữ 02 tịch đề của 02 đối tượng (không rõ họ tên, nhân thân lai lịch cụ thể) đến ghi ngày 23/02/2023, tịch thứ nhất ghi số 877 đánh 03 đài miền trung (Quảng Bình, Bình Định, Quảng Trị) với số tiền 15.000 đồng (5.000 đồng/đài), ghi số 77 đánh 03 đài miền trung (Quảng Bình, Bình Định, Quảng Trị) với số tiền 30.000 đồng (10.000 đồng/đài); ghi số 871 đài Bình Định số tiền 5.000 đồng; tịch thứ hai ghi đài Bình Định số 718 số tiền 5.000 đồng, 18 số tiền 10.000 đồng; 438 số tiền 5.000 đồng, 38 số tiền 10.000 đồng.
Thu giữ của N1 01 điện thoại Iphone, qua kiểm tra điện thoại N1 trong ứng dụng mạng xã hội Zalo có nội dung tin nhắn do Huỳnh Thị T2 (sinh năm 1984, thường trú tại tổ 7, KV3, phường HS, thành phố H), (Zalo M) nhắn đánh đài miền Nam (gồm 03 đài Tây Ninh, An Giang, Bình Thuận) số 492, 279 số tiền 60.000 đồng (20.000 đồng/đài), số 868 số tiền 60.000 đồng (20.000 đồng/đài), số 721 số tiền 150.000 đồng (50.000 đồng/đài), số 21 số tiền 150.000 đồng (50.000 đồng/đài); Đài Bình Định đánh số đầu 83, đánh bao số 083, bao số 83 với tổng số tiền 200.000 đồng.
Tổng số tiền Huỳnh Thị N1 ghi số đề là 1.000.000 đồng.
Như vậy, tang số đánh bạc của N1 với các đối tượng tại đài miền Trung gồm đài Quảng Bình là 115.000 đồng, đài Quảng Trị là 115.000 đồng, đài Bình Định là 350.000 đồng (thời điểm phát hiện các đài miền trung Quảng Bình, Bình Định, Quảng Trị chưa mở thưởng); Đối với đài miền Nam lúc này đã mở thưởng và có kết quả xổ số, tại đài Bình Thuận Huỳnh Thị T2 trúng số 21 với số tiền 262.500 đồng, nên tang số N1 đánh tại đài Tây Ninh là 140.000 đồng, đài An Giang là 140.000 đồng, đài Bình Thuận là 402.500 đồng. Tổng tang số N1 đánh bạc là 1.262.500 đồng. Quá trình điều tra N1 khai nhận tự ghi số đề và tự tính toán thắng thua với các đối tượng đánh đề chứ không chuyển số đề cho ai khác.
Vật chứng thu giữ gồm:
+ Thu giữ của Huỳnh Thị N1 trên bàn ghi số đề số tiền 90.000 đồng, trong túi xách số tiền 8.900.000 đồng.
+ Thu giữ của Trần Thanh N2 số tiền 300.000 đồng.
+ 02 (hai) tờ tịch ghi số đề.
+ 01 điện thoại Iphone.
Về xử lý vật chứng:
- Tiếp tục tạm giữ số tiền đã thu giữ, 02 (hai) tờ tịch ghi số đề, 01 điện thoại Iphone để xử lý theo pháp luật.
Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKSTPH ngày 28/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố bị cáo Huỳnh Thị N1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị N1 phạm tội “Đánh bạc” - Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Thị N1. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị N1 từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng cải tạo không giam giữ.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Số tiền 8.900.000 đồng thu được trong túi xách của N1 là của mẹ N1 là bà Lý Thị X giao cho N1 mua thuốc chữa bệnh không sử dụng trong việc đánh bạc nên trả lại cho bà Lý Thị X.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 90.000 đồng N1 ghi trên bàn đề và 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) đây là số tiền N2 dùng để đưa N1 thực hiện hành vi đánh bạc.
Số tiền đang được tạm giữ tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế, theo Giấy nộp tiền người nộp là ông Lê Quốc L (Thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H) và đơn vị nhận là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H nộp ngày 28/12/2023.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone vì điện thoại này là công cụ phương tiện N1 sử dụng để đánh bạc.
3. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Buộc bị cáo Huỳnh Thị N1 phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Ý kiến và lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật. Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ khẳng định:
Vào lúc 16 giờ 45 phút ngày 23/02/2023, tại nhà Huỳnh Thị N1, địa chỉ tổ 10, KV4, phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Huỳnh Thị N1 có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề, tính toán thắng thua trực tiếp với các đối tượng chơi số đề tại đài Quảng Bình là 115.000 đồng, đài Quảng Trị là 115.000 đồng, đài Bình Định là 350.000 đồng, đài Tây Ninh là 140.000 đồng, đài An Giang là 140.000 đồng, đài Bình Thuận là 402.500 đồng, tổng tang số N1 đánh bạc là 1.262.500 đồng, dưới 5.000.000 đồng nhưng Huỳnh Thị N1 đang có tiền án về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự số 32/2019/HS-ST chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Vì vậy, bị cáo Huỳnh Thị N1 đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố.
[3] Xét căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì muốn kiếm tiền nhanh, không bằng công sức lao động chính đáng nên bị cáo cố ý vi phạm. Đánh bạc là tệ nạn xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng nên cần phải xử lý nghiêm.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Từ những phân tích, đánh giá trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo đánh bạc với số tiền không lớn nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ đối với bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định có hoàn cảnh rất khó khăn mẹ đang bị bệnh hiểm nghèo ung thư thận giai đoạn cuối và nuôi con nhỏ nên Hội đồng xét xử không xử phạt miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Số tiền 8.900.000 đồng thu được trong túi xách của N1 là của mẹ N1 là bà Lý Thị X giao cho N1 mua thuốc chữa bệnh không sử dụng trong việc đánh bạc nên trả lại cho bà Lý Thị X.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 90.000 đồng N1 ghi trên bàn đề và 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) đây là số tiền N2 dùng để đưa N1 thực hiện hành vi đánh bạc.
Số tiền đang được tạm giữ tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế, theo Giấy nộp tiền người nộp là ông Lê Quốc L (Thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H) và đơn vị nhận là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H nộp ngày 28/12/2023.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone vì điện thoại này là công cụ phương tiện N1 sử dụng để đánh bạc.
Vật chứng trên được xác định theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/12/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị N1 phạm tội “Đánh bạc”.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị N1 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế nhận được quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Huỳnh Thị N1 cho UBND phường HS, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế có trách nhiệm giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Miễn khấu trừ thu nhập và xử phạt bổ sung cho bị cáo Huỳnh Thị N1.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Trả lại cho bà Lý Thị X số Tiền 8.900.000 đồng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 390.000đồng (Ba trăm chín mươi nghìn đồng).
Số tiền đang được tạm giữ tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế, theo Giấy nộp tiền người nộp là ông Lê Quốc L (Thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H) và đơn vị nhận là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H nộp ngày 28/12/2023.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone.
Vật chứng trên được xác định theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Buộc bị cáo Huỳnh Thị N1 phải chịu 200.000 đồng.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Quyền kháng cáo: Án sơ thẩm xét xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 69/2024/HS-ST về tội đánh bạc
Số hiệu: | 69/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về