TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 69/2020/HSST NGÀY 29/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 29 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2020/TLST – HS ngày 13 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2020/QĐST–HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:
Họ và tên: 1. Lô Văn L, tên gọi khác: Không Sinh năm 1995 t¹i xã C, huyện Q, tØnh NghÖ An. Nơi cư trú: Bản Ạ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/ 12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lô Văn H (đã chết)và bà Vi Thị L(đã chết);Vợ: Sầm Thị T (đã ly hôn), con: 01 người, sinh năm 2013; Tiền sự: Không; Tiền án: 03 tiền án. Ngày 22/4 /2015 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp xử phạt Lô Văn L 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 29/6 /2016 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp xử phạt Lô Văn L 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 30/01/21018 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp xử phạt 02 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2020 đến nay tại trại tạm giam công an tỉnh Nghệ An.
( Có mặt).
2. Vi Văn H, tên gọi khác: Không.
Sinh năm 1980 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An:
Nơi cư trú: Bản Ạ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An:
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vi Văn V(đã chết)và bà Lo Thị H; Vợ: Quách Thị H:
Con: 02 người (Lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2011); Tiền sự: Không; Tiền án:
01 tiền án.Ngày 22/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Con Cuông xử phạt 1 năm 9 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến nay tại trại tạm giam công an tỉnh Nghệ An.
( Có mặt).
- Bị hại: Anh Hủn Vi A, sinh năm 1981.
Nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ, ngày 23/7/2020, Lô Văn L và Vi Văn H vào nhà anh Hủn Vi A ở bản L, xã C, huyện Q trộm cắp tài sản là 15 con gà cỏ và 02 con ngan cỏ. Khi L và H đang trên đường đi tiêu thụ số gà, ngan trên thì bị Công an xã Châu Thái, huyện Quỳ Hợp bắt quả tang.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL- HĐĐG ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳ Hợp xác định: 15 con gà đang sống, loại gà cỏ, khối lượng 20 kg và 02 con ngan đang sống, loại ngan cỏ, có khối lượng 4 kg có tổng giá trị là 2.720.000 đồng (Hai triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).
Tại phiên tòa, Lô Văn L và Vi Văn H đã khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 23/7/2020, Lô Văn L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên đi đến nhà Vi Văn H để rủ Hùng cùng đi trộm cắp tài sản. Khi đến nhà gặp H, Lô Văn L nói “ Em biết chỗ có gà tý anh em ta đi bắt trộm lấy tiền tiêu” thì H đồng ý. Sau đó Lê và H ngồi nói chuyện đến 23 giờ cùng ngày, Lô Văn L nói Vi Văn H lấy hai chiếc bì mang theo để bỏ gà. H lấy một bì màu xanh, một bì màu trắng rồi bỏ vào giỏ hai xe đạp đang để trong gian bếp nhà H. Sau đó H và L mỗi người đi một xe đạp đến khu vực đồng ruộng thuộc bản L, xã C. Lô Văn L dẫn H đi theo con đường đất trên cánh đồng rồi để xe đạp cạnh mương nước. L và H cầm theo 02 bì xác rắn đi bộ đến trước nhà anh Hủn Vi A ở bản L, xã C, huyện Q. Do L bị đau chân nên L cầm 2 bì xác rắn đứng ngoài chờ, còn H trèo qua tường rào xây vào bên trong, đi đến chuồng gà. Thấy chuồng gà không khóa nên H mở cửa đi vào bắt từng con gà đi ra đưa qua tường rào cho L và bỏ vào bì. Vi Văn H bắt được 15 con gà và 02 con ngan đưa cho Lô Văn L bỏ vào hai bì xác rắn thì H không bắt nữa mà trèo qua tường rào ra ngoài. Lô Văn L và Vi Văn H mỗi người đưa một bì gà, ngan quay lại bỏ một bì lên một xe đạp. Lô Văn L dùng chiếc áo dài tay màu xanh trùm lên bì xác rắn đựng gà để tránh bị phát hiện. Lô Văn L và Vi Văn H mỗi người đạp một chiếc xe đạp đi hướng xuống thị trấn Quỳ Hợp để tiêu thụ. Tuy nhiên khi L và H vừa đi đến ngã ba bản T, xã C thì bị Công an xã Châu Thái phối hợp với công an xã Châu Quang đi tuần tra phát hiện nên L và H bỏ hai bì gà, ngan xuống và đạp xe đạp bỏ chạy. Tổ công tác đuổi theo thì H bỏ xe đạp lại và chạy thoát, còn L đạp xe trốn thoát.
Bản cáo trạng số 68/VKS – HS ngày 09/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo Lô Văn L về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo Vi Văn H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo Lô Văn L, Vi Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài như đã nêu trên và nhất trí với truy tố của VKSND huyện Quỳ Hợp truy tố các bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Lô Văn L. Xử phạt bị cáo Lô Văn L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Vi Văn H. Xử phạt bị cáo Vi Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự : Bị hại Hủn Vi A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên đề nghị miễn xét.
Về vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc áo dài tay màu xanh và 02 chiếc bì xác rắn đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo Lô Văn L nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của mình là sai trái mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.
Bị cáo Vi Văn H nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của mình là sai trái mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa các bị cáo Lô Văn L và Vi Văn H thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng. Lời khai nhận của các bị cáo Lô Văn L và Vi Văn H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ nên có đủ căn cứ xác định: Khoảng 23 giờ, ngày 23/7/2020, Lô Văn L và Vi Văn H vào nhà anh Hủn Vi A ở bản L, xã C, huyện Q bắt trộm được 15 con gà đang sống, loại gà cỏ, khối lượng 20 kg và 02 con ngan đang sống, loại ngan cỏ, có khối lượng 4 kg có tổng giá trị là 2.720.000 đồng. Do đó, hành vi trên của Vi Văn H đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự Hành vi trên của Lô Văn L đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Lô Văn L đã ba lần bị kết án( đã tái phạm nguy hiểm) về tội trộm cắp tài sản, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, bị cáo Lô Văn L phải bị xét xử và chịu hình phạt theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của các bị cáo Lô Văn L và Vi Văn H là rất nguy hiểm, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu tài sản của những người bị hại. Vụ án xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn. Gây tâm lý lo lắng hoang mang trong quần chúng nhân dân nên cần lên cho các bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần phân hóa vai trò của các bị cáo để xét xử các bị cáo đúng pháp luật.
Bị cáo Lô Văn L là người khởi xướng việc phạm tội và trực tiếp thực hiện phạm tội nên là người giữ vai trò chính, bị cáo có nhân thân xấu, nên phải xét xử bị cáo mức án nghiêm. Có xem xét giảm nhẹ một phần về hình phạt vì: bị cáo khai báo thành khẩn, đầu thú. Cần áp dụng tình tiết được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Lô Văn L. Bị cáo Vi Văn H là người thực hiện tội phạm tích cực nhất, có tình tiết tăng nặng là " tái phạm" nên phải xét xử bị cáo mức án nghiêm. Có xem xét giảm nhẹ một phần về hình phạt vì: bị cáo khai báo thành khẩn; đầu thú; Bị cáo có bố là người có công được nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Cần áp dụng tình tiết được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hùng.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ”. Do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo đang bị tạm giam, trước khi phạm tội các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hủn Vi A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không phải xem xét thêm.
[6] Về vật chứng vụ án: 02 chiếc bì xác rắn là phương tiên phạm tội và 01 chiếc áo dài tay màu xanh là vật không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo Lô Văn L và Vi Văn H chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lô Văn L và Vi Văn H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lô Văn L.
Xử phạt: Bị cáo Lô Văn L 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 08/ 08/ 2020.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vi Văn H.
Xử phạt: Bị cáo Vi Văn H 10(mười) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 04/8/2020.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc bì xác rắn và 01 chiếc áo dài tay màu xanh.
Đặc điểm chi tiết vật chứng trên được phản ánh tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 09/10/2020 giữa Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Quỳ Hợp.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật TT hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.
Bị cáo Lô Văn L, Vi Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, bị hại. Báo cho các bị cáo và bị hại biết được quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 29/10 /2020.
Bản án 69/2020/HSST ngày 29/10/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 69/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về