Bản án 69/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 /05 /2020, tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 12/03/2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:30 /2020/QĐXXST-HS ngày 18 /03/2020 đối với bị cáo:

Lường Văn Hu (tên gọi khác: không), sinh năm 1998.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: thôn Nà Đường, xã Thạch Lương, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái (Nay là: Thôn Nà Đường, xã Thạch Lương, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái); nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn S và bà Hà Thị Y; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn Hu: Ông Đào Anh T - Trợ giúp viên pháp lý, Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người chứng kiến:

1. anh Nguyễn Văn X; sinh năm 1983; Trú tại: xóm Xuân Hà 3, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt

2. anh Tống Văn Th; sinh năm 1981; Trú tại: xóm Bìa, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 27/12/2019, Tổ công tác của Công an xã Thành Công, thị xã Phổ Yên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực xóm Bìa, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên, phát hiện Lường Văn Hu có biểu hiện nghi vấn, qua kiểm tra Hu tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 02 gói giấy mầu vàng, bên trong có chứa chất bột mầu trắng đục Hu đang cầm trong tay phải và khai nhận là ma túy (heroine), Hu vừa mua tại cổng Làng Bìa, xã Thành Công mục đích mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong số vật chứng thu giữ của Hu bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên để xử lý theo thẩm quyền Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã tiến hành cân khối lượng không bì tại Phòng PC09 - Công an tỉnh Thái Nguyên 02 gói ma túy thu giữ của Hu được 0,281 gam và tiếp tục niêm phong trong phong bì ký hiệu M gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 103/ KL-KTHS ngày 03/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: số chất bột mầu trắng đục 0,281 gam thu giữ của Hu niêm phong trong phong bì ký hiệu M là Heroine.

Quá trình điều tra Lường Văn Hu khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 07 giờ 00 ngày 27/12/2019, Hu bắt xe đi từ Hà Nội đến ngã tư Ba Hàng, thị xã Phổ Yên và mượn điện thoại của người đi đường gọi hỏi mua ma túy của một người nam giới không quen biết và được người này hẹn đến khu vực gần cổng làng thuộc xóm Bìa, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên để bán mua ma túy. Hu bắt xe ôm đi đến địa điểm trên gặp một người nam giới đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang kín mặt. Gặp Hu, người này hỏi “có phải mày không”, Hu trả lời “đúng”. Sau đó Hu đưa số tiền 200.000đ, người nam giới cầm tiền và đưa cho Hu 02 gói ma túy được gói bên ngoài bằng giấy mầu vàng. Mua xong, Hu cầm trong tay phải đi ra cổng làng Bìa, thuộc xóm Bìa, xã Thành Công, Phổ Yên tìm chỗ để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an xã Thành Công phát hiện bắt giữ, Hu đã tự nguyện giao nộp 02 gói ma túy vừa mua được như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 43/CT-VKSPY ngày 11/03/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Lường Văn Hu về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lường Văn Hu phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt Lường Văn Hu mức án từ 18-24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,255 gam heroine còn lại sau giám định ; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N trong có vỏ bao mẫu niêm phong thu giữ vật chứng khi bắt quả tang.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn Hu. Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận, người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh và điều luật truy tố đối với bị cáo như cáo trạng đã truy tố, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung, án phí Viện kiểm sát đã áp dụng và đề nghị đối với bị cáo. Tuy nhiên mức án mà Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là cao so với nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị xem xét hoàn cảnh, điều kiện bị cáo hiện nay cũng như nhân thân bị cáo xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo mau chóng trở về với xã hội.

Đối với quan điểm người bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Viện kiểm sát đối đáp cho rằng: Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ bị cáo được hưởng thì mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, do vậy Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã đề nghị.

Trong phần tranh luận, bị cáo không bổ sung ý kiến tranh luận và đồng ý với quan điểm đề nghị của người bào chữa, thừa nhận nội dung truy tố là đúng, người, đúng tội, không oan sai. Lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa những người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vắng mặt những người chứng kiến. Xét việc những người chứng kiến vắng mặt nhưng trong hồ sơ đã có lời khai của họ nên sự vắng mặt họ không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 27/12/2019, tại khu vực gần cổng làng Bìa, thuộc xóm Bìa, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Lường Văn Hu đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,281 gam ma túy qua giám định là heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo Lường Văn Hu đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó bản cáo trạng số 43/CT-VKSPY ngày 11/03/2020 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

c. Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...”

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân . Do đó việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nhân thân: Bị cáo xuất thân từ gia đình lao động, được nuôi ăn học hết lớp 9/12 thì nghỉ học, sinh sống, làm ruộng tại địa phương. Do không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mắc nghiện ma túy đã dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, để đảm bảo kỷ cương và ngăn chặn tình trạng phạm tội về ma túy trên địa bàn cần buộc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Tuy nhiên căn cứ vào tình trạng phạm tội trên địa bàn thị xã Phổ Yên hiện nay, đặc biệt tệ nạn ma túy thấy rằng mức án Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là hoàn toàn phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị của người bào chữa không có cơ sở chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo

[7] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định và các bao bì kèm theo là vật Nhà nước cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống tại vùng khó khăn về kinh tế nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định.

Về nguồn gốc số Heroine, Hu khai mua của một người nam giới không quen biết, tại khu vực xóm Bìa, xã Thành Công, thị xã Phổ Yên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn Hu phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Hình phạt chính:

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lường Văn Hu 18 (mười tám ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2019.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Lường Văn Hu 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo Lường Văn Hu.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,255 gam mẫu M còn lại sau giám định ; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi mẫu lưu kho. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 19 / 03 / /2020 của Công an thị xã Phổ Yên).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn Hu.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo Lường Văn Hu có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;