TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 69/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 217/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/5/2020 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Số 284, ấp AQ, xã MAH, huyện LV, tỉnh ĐT; địa chỉ liên lạc: Số 030, ấp VH, xã VN, huyện CT, tỉnh AG, có mặt.
2. Bị đơn: Anh Võ Hữu P, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: Số 284, ấp A Q, xã MAHB, huyện LV, tỉnh ĐT, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa chị C là nguyên đơn trình bày:
Chị C với anh P cưới nhau vào năm 2013, đến ngày 18/5/2016 thì đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, An Giang. Chị C với anh P chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, anh P thường xuyên nhậu, đánh đập chị C, quăng đồ, xua đuổi chị C, chị C có báo công an xã 03 lần, nhưng chỉ làm việc mà không lập biên bản xử phạt vì anh P kinh tế khó khăn, chị C đã đem con về nhà cha mẹ ruột sống và đã ly thân từ tháng 12 năm 2019 cho đến nay.
Cách đây khoảng 02 tuần, chị C có đưa con về nhà anh P, chỉ có 01 ngày, nhưng anh P vẫn không thay đổi tính tình, nhậu sỉn và quăng đồ, xua đuổi chị C. Nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nữa. Nay chị C yêu cầu được ly hôn với anh P.
Quá trình chung sống có 01 con chung tên Võ Thị Kiều T, sinh ngày 17/4/2014, hiện do chị C nuôi dưỡng; nay ly hôn chị C yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng.
Về chia tài sản chung: Chị Ckhông yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Chị C không yêu cầu giải quyết.
- Trong biên bản hòa giải và tại phiên tòa anh P trình bày:
Anh P thống nhất với lời trình bày của chị Cvề thời gian đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn cũng như thời gian ly thân. Anh Pcó nhậu nhưng vì bạn bè nên nhậu, mà mỗi lần nhậu là chị C cằn nhằn, nên anh P có chửi, lúc giận có quăng đồ đuổi chị C, công an xã có mời 02 lần, nhưng anh Pchỉ chửi chứ không có đánh chị C.
Cách nay khoảng 02 tuần, chị C có đưa con về nhà, hôm đó có bạn, anh P nhậu, chị C không đồng ý nên anh P mới quăng đồ chị C ra ngoài. Nay anh Pkhông đồng ý ly hôn với chị C.
Quá trình chung sống có 01 con chung tên Võ Thị Kiều T, sinh ngày 17/4/2014, hiện do chị C nuôi dưỡng; nay ly hôn anh P yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản chung: Anh P không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: anh P không yêu cầu giải quyết.
- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:
+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.
+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.
+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C. Con chung để chị C tiếp tục nuôi dưỡng, chị Ckhông yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản, nợ chung không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Anh P đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân:
Chị C và anh Pchung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa chị C và anh P là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.
Tuy nhiên, quá trình chung sống anh P không lo làm ăn, lo cho vợ con, mà thường xuyên nhậu nhẹt, đánh đập chị C. Chính quyền địa phương cũng xác nhận có việc anh P thường nhậu say sỉn, đánh đập chị C, nhưng do điều kiện kinh tế anh P khó khăn nên chính quyền không xử phạt hành chính.
Tại phiên tòa, anh P không thừa nhận có việc đánh chị Ckhông xin lỗi chị C, chứng tỏ anh P chưa thật sự nhìn ra sai trái của bản thân, chưa thật sự ăn năn, hối hận về những hành vi đã đối xử bạo hành với vợ. Chỉ cách đây 02 tuần, khi chị C đưa con về nhà anh P, thì tiếp tục xảy ra xung đột, anh P đuổi chị C đi. Do đó, hôn nhân giữa chị Chà anh P không thể hàn gắn được nữa.
Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng 1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.” Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên 1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa chị C và anh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của chị C là có căn cứ. Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.
[2.2] Về nuôi con chung:
Quá trình chung sống có 01 con chung tên Võ Thị Kiều T, sinh ngày 17/4/2014, hiện do chị C nuôi dưỡng; nay ly hôn chị C yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng. Anh P thì yêu cầu giao con cho anh P nuôi dưỡng.
Xét thấy: Con chung từ khi chị C và anh P xa nhau do chị C trực tiếp nuôi dưỡng đến nay, cháu vẫn khỏe mạnh phát triển bình thường. Anh P có hành vi bạo lực gia đình nên yêu cầu được nuôi con của anh P không được chấp nhận.
Do đó, giao con chung cho chị Ctiếp tục nuôi dưỡng. Chị C không yêu cầu anh P cấp dưỡng nên không xem xét.
Anh P không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, chị C và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.3] Về chia tài sản: Chị C và anh P không yêu cầu nên không xem xét.
[2.4]. Về nợ chung: Chị C và anh P không yêu cầu nên không xem xét.
[3] Về án phí: Chị C xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 19, 56, 59, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim C.
Chị Nguyễn Thị Kim C được ly hôn với anh Võ Hữu P.
2. Về nuôi con chung:
Chị Nguyễn Thị Kim C được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Thị Kiều T, sinh ngày 17/4/2014, hiện do chị C nuôi dưỡng.
Chị C không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.
Anh P được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị C và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh P thực hiện quyền này.
3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.
5. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị Kim C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BI/2019/0005573 ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 69/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về