Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN huyện LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG 

BẢN ÁN 69/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 20 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc: “tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm 1996 (có mặt) Trú tại: Thôn TD, xã TQ, huyện LNg, tỉnh BG

Bị đơn: Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1996 (vắng mặt) Trú tại: Thôn TD, xã TQ, huyện LNg, tỉnh BG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/5/2020 và những lời khai của nguyên đơn chị Dương Thị H và trong quá trình xét xử, nội dung vụ án như sau:

Chị có kết hôn với anh Trần Ngọc H trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, được sự đồng ý của hai bên gia đình có đến Ủy ban nhân dân xã TQ - LNg – BG đăng ký kết hôn vào ngày 17/01/2017. Được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau ngày cưới chị H, anh H về chung sống cùng nhau ngày tại gia đình anh H ở thôn TD, xã TQ, huyện LNg, tỉnh BG.

Vợ chồng chung sống với nhau được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chồng chị chơi bời không chịu làm ăn chị đã kHên bảo nhiều lần nhưng anh không thay đổi. Giữa anh chị tH xuyên xảy ra đánh cãi chửi nhau mặc dù chị H xuyên nH nhịn để nuôi dạy con cái. Đến tháng 02/2020 anh chị không thể chung sống cùng anh H được nữa, chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng ly thân từ đó đến nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Ngọc H.

Về con chung: Chị và anh H có một con chung là cháu Trần Ngọc Minh Nh, sinh ngày 05/02/2017. Nguyện vọng của chị sau khi ly hôn là được nuôi cháu Nh, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng và không đề nghị Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H, anh H không có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 24/7/2020 và biên bản hoà giải anh Trần Ngọc H trình bày: Anh và chị H kết hôn với nhau vào ngày 17/012017, trước khi kết hôn có được tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TQ, huyện LNg, tỉnh BG. Cưới xong chị H có về gia đình anh làm dâu tại thôn TD, xã TQ, huyện LNg, tỉnh BG. Thời gian đầu chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc. Đến tháng 03/2020, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do chị H tự gây ra. Sau đó, chị H tự bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Nay anh thấy vợ chồng vẫn còn tình cảm, chị H làm đơn xin ly hôn với anh, anh không nhất trí. Anh muốn chị H suy nghĩ lại để đoàn tụ vợ chồng nuôi dạy con cái.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Trần Ngọc Minh Nh, sinh ngày 05/02/2017. Nếu phải ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng và không đề nghị Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H, anh H không có tài sản chung, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Về con chung chị xin nuôi cháu Nh, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản công nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại phiên tòa anh H vắng mặt lần thứ hai, Hội đồng xét xử công bố lời khai của anh H có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và của các đương sự. Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của mình. Phát biều ý kiến về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ các Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị H: Cho chị Dương Thị H được ly hôn với anh Trần Ngọc H.

Về con chung: Giao cho chị Dương Thị H nuôi con chung là Trần Ngọc Minh Nh, sinh ngày 05/02/2017. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết, vì các đương sự không yêu cầu. Sau khi ly hôn anh H được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này Về tài sản chung, công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết giải quyết, vì các đương sự không yêu cầu.

Về án phí: Chị Dương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2019/0001302 ngày 18/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thẩm quyền giải quyết vụ án và thủ tục tố tụng: Chị Dương Thị H khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết ly hôn, nuôi con chung với anh Trần Ngọc H. Đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà anh H vắng mặt lần thứ hai, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt. căn cứ vào điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xét tiếp tục xét xử vắng mặt anh H theo thủ tục chung.

[2] Xét yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân: Chị H, anh H tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc, có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang theo quy định của pháp luật. Do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị H, anh H đều xác định có mâu thuẫn. Chị H đề nghị giải quyết ly hôn anh H không đồng ý. Tại phiên tòa hôm nay chị H kiên quyết không muốn về đoàn tụ cùng anh H vì tình cảm vợ chồng không còn, chị kiên quyết xin ly hôn với anh H, khi hòa giải anh H muốn đoàn tụ gia đình để không ảnh hưởng đến con cái. Hội đồng xét xử xét thấy: Qua quá trình hoà giải Tại Toà án, qua lời trình bày của đương sự chứng tỏ việc mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H, anh H là có thật. Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải và cho anh H, chị H đoàn tụ nhưng không có kết quả chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H, chị H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của chị H đối với anh H: Cho chị H được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Anh H, chị H xác định có một con chung là cháu Trần Ngọc Minh Nh, sinh ngày 05/02/2017. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi cháu Nh, anh H cũng có nguyện vọng được nuôi cháu Nh. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu H vẫn còn nhỏ, chị H là phụ nữ có điều kiện chăm sóc con tốt hơn anh H, do vậy cần giao cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo quyền của trẻ em. Việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết, vì các đương sự không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H, anh H không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Dương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ các Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị H: Cho chị Dương Thị H được ly hôn với anh Trần Ngọc H.

Về con chung: Giao cho chị Dương Thị H nuôi con chung là Trần Ngọc Minh Nh, sinh ngày 05/02/2017. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết, vì các đương sự không yêu cầu. Sau khi ly hôn anh H được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này .

Về án phí: Chị DươngThị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2019/0001302 ngày 18/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.

Đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:69/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;