Bản án 69/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Thị T, sinh năm: 1975, tại huyện B, tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khầu thường trú: Ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn I và bà Trần Thị U; chồng, con: chưa có; tiền án: không có; tiền sự: không có. Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị U, sinh năm: 1958.

Đa chỉ: Ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 23 tháng 7 năm 2019, Công an huyện Bến Cầu tiến hành kiểm tra hành chính nhà của Phạm Thị T tại Ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, phát hiện T đang tổng kết phơi đề đài xổ số kiến thiết tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và tỉnh Bến Tre nên lập biên bản tạm giữ tang vật để làm rõ Qua điều tra, T khai nhận: Vào đầu tháng 7 năm 2019, T tổ chức bán số đề tại nhà cho một số người tại địa phương với hình thức là người nào có nhu cầu mua số đề thì nhắn tin vào điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202, số thuê bao 0986849152 của T, hoặc trực tiếp đến nhà gặp T để mua số đề, tỷ lệ thắng đề 02 con 01 thắng 70, đề 03 con 01 thắng 600. Để khuyến khích người mua số đề, T khuyến mãi cho khách 28% (khách mua số đề với số tiền 100.000 đồng thì T nhận 72.000 đồng). Hàng ngày, số tiền T bán số đề thấp nhất là 2.686.700 đồng, cao nhất là 13.809.600 đồng. Khoảng 15 giờ cùng ngày, T bắt đầu tổng kết phơi đề, viết các con số đề và số tiền đã bán cho khách vào tờ giấy lịch hoặc tờ giấy tập học sinh, đến khoảng 16 giờ cùng ngày T đem tờ phơi đề và tiền bán số đề sang Campuchia gặp người đàn ông tên R là người Campuchia để giao, T hưởng tiền hoa hồng 05% trên tổng số tiền đã giao phơi đề cho ông R, mỗi ngày T thu lợi bất chính khoảng 96.000 đồng đến 490.000 đồng.

Với hình thức trên, vào các ngày 21, 22, 23 tháng 7 năm 2019 T đã bán số đề cho nhiều người tham gia cụ thể như sau:

- Ngày 21-7-2019, T đã bán số đề đài xổ số kiến thiết tỉnh Tiền Giang và đài xổ số miền Bắc, gồm:

T bán 13 con số đề đài Tiền Giang cho Nguyễn Thị X, Phạm Thành N và 03 người không rõ lai lịch với số tiền 2.031.700 đồng. X mua 04 con số đề số tiền 98.200 đồng. N mua 02 con số đề số tiền 294.000 đồng, trong đó có 01 con số đề đối chiếu kết quả xổ số trúng thưởng số tiền 2.100.000 đồng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 4.131.700 đồng.

T bán 04 con số đề đài Miền Bắc cho Nguyễn Thị X và 02 người không rõ lai lịch với số tiền 655.000 đồng. X mua 01 con số đề số tiền 20.000 đồng, đối chiếu kết quả xổ số không trúng thưởng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 655.000 đồng.

- Ngày 22-7-2019, T đã bán số đề đài xổ số kiến thiết Thành phố Hồ Chí Minh và đài xổ số kiến thiết tỉnh Đồng Tháp, gồm:

T bán 162 con số đề đài Thành phố Hồ Chí Minh cho Trương Thị L, Nguyễn Thị X, Khưu Thị B, Nguyễn Văn C và 09 người không rõ lai lịch với số tiền 12.965.500 đồng. L mua 01 con số đề số tiền 48.500 đồng. X mua 03 con số đề số tiền 73.000 đồng. B mua 02 con số đề số tiền 134.000 đồng. C mua 05 con số đề số tiền 390.000 đồng. Trong 162 con số đề đã bán có 03 con số đề đối chiếu kết quả xổ số trúng thưởng số tiền 8.100.000 đồng, trong đó L trúng thưởng 01 con số đề số tiền là 600.000 đồng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 21.065.500 đồng.

T bán 17 con số đề đài Đồng Tháp cho Khưu Thị B, Phạm Thành N và 02 người không rõ lai lịch với số tiền 844.100 đồng. B mua 02 con số đề số tiền 134.000 đồng. N mua 01 con số đề số tiền 80.000 đồng. Trong 17 con số đề đã bán có 02 con số đề đối chiếu kết quả xổ số trúng thưởng số tiền 525.000 đồng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 1.369.100 đồng.

- Ngày 23-7-2019, T đã bán số đề đài xổ số kiến thiết tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và đài xổ số kiến thiết tỉnh Bến Tre, gồm:

T bán 37 con số đề đài Bà Rịa Vũng Tàu cho Nguyễn Thị X, Phạm Thành N, Nguyễn Văn C, Lê Thị Y và 08 người không rõ lai lịch với số tiền 2.254.600 đồng. X mua 07 con số đề số tiền 185.400 đồng. N mua 02 con số đề số tiền 134.000 đồng. C mua 08 con số đề số tiền 272.000 đồng. Y mua 02 con số đề số tiền 136.000 đồng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 2.254.000 đồng. T bán 21 con số đề đài Bến Tre cho Khưu Thị B, Trương Thị L và 03 người không rõ lai lịch với số tiền 2.193.500 đồng. B mua 04 con số đề số tiền 1.590.000 đồng. L mua 02 con số đề số tiền 95.500 đồng. Tổng cộng số tiền T dùng đánh bạc là 2.193.500 đồng.

Kết luận giám định số 1381/KL-KTHS ngày 20-9-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A01 đến A03) với chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M06) do cùng một người viết ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A04, A05) với chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M06) có phải do cùng một người viết ra hay không.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

Các vật chứng được thu giữ hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-11-2019 gồm:

- Tiền Việt Nam 34.075.000 đồng (Ba mươi bốn triệu, không trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng;

- 01 (một) điện thoại di động, màu sơn: xanh - đen- xám, nhãn hiệu Nokia 1202, số IMEI: 359356/03/193961/7, bên trong có 01 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0986849152 (đã qua sử dụng);

- 01 (một) bút bi mực xanh, nhãn hiệu TL-027 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy tính màu trắng đen, nhãn hiệu “CASIO ELECTRONIC CALCULATOR” (đã qua sử dụng).

- 22 tờ giấy lịch đã được cắt nhỏ, kích thước 6,5 cm x 10,5 cm.

Kê biên tài sản: Không có.

Hành vi mua số đề của Nguyễn Thị X, Phạm Thành N, Khưu Thị B, Trương Thị L, Lê Thị Y, Nguyễn Văn C chưa đến mức xử lý hình sự nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt vi phạm hành chính xong.

Đi với người đàn ông tên R không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 67/CT-VKSBC ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Phạm Thị T về tội: “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Thị T về tội: “Đánh bạc”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo không trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào đầu tháng 7 năm 2019, cụ thể là vào các ngày 21; 22; 23 tháng 7 năm 2019, tại Ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo T tổ chức bán số đề tại nhà cho một số người tại địa phương với hình thức là người nào có nhu cầu mua số đề thì nhắn tin vào điện thoại của bị cáo, hoặc trực tiếp đến nhà gặp bị cáo để mua số đề.

- Ngày 21-7-2019, T bán 13 con số đề đài Tiền Giang cho Nguyễn Thị X, Phạm Thành Nvà 03 người không rõ lai lịch với số tiền là 4.131.700 đồng và bán 04 con số đề đài Miền Bắc cho Nguyễn Thị X và 02 người không rõ lai lịch với số tiền 655.000 đồng.

- Ngày 22-7-2019, T bán 162 con số đề đài Thành phố Hồ Chí Minh cho Trương Thị L, Nguyễn Thị X, Khưu Thị B, Nguyễn Văn C và 09 người không rõ lai lịch với số tiền là 21.065.500 đồng và bán 17 con số đề đài Đồng Tháp cho Khưu Thị B, Phạm Thành N và 02 người không rõ lai lịch với số tiền là 1.369.100 đồng.

- Ngày 23-7-2019, T bán 37 con số đề đài Bà Rịa Vũng Tàu cho Nguyễn Thị X, Phạm Thành N, Nguyễn Văn C, Lê Thị Y và 08 người không rõ lai lịch với số tiền là 2.254.000 đồng và bán 21 con số đề đài Bến Tre cho Khưu Thị B, Trương Thị L và 03 người không rõ lai lịch với số tiền 2.193.500 đồng.

Tại kết luận giám định số 1381/KL-KTHS ngày 20-9-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A01 đến A03) với chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M06) do cùng một người viết ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A04, A05) với chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M01 đến M06) có phải do cùng một người viết ra hay không. Tại phiên Tòa, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được thu giữ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Phạm Thị T đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố bị cáo Phạm Thị T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đối với hành vi mua số đề của Nguyễn Thị X, Phạm Thành N, Khưu Thị B, Trương Thị L, Lê Thị Y, Nguyễn Văn C chưa đến mức xử lý hình sự nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt vi phạm hành chính xong.

[4] Đối với người đàn ông tên R không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[5] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào, thắng thua bằng tiền là pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa, đề nghị áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ nên chấp nhận. Bởi lẽ, bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo cũng đã ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục cho bị cáo biết chấp hành pháp luật, trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[7] Về xử lý vật chứng:

Các vật chứng được thu giữ trong vụ án hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-11-2019. Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với số tiền Việt Nam 34.075.000 đồng (Ba mươi bốn triệu, không trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng. Trong đó có số tiền 14.075.000 đồng là tiền do bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội mà có nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, còn lại số tiền 20.000.000 đồng là tiền của bà Trần Thị U (mẹ ruột của bị cáo) gửi bị cáo T giữ dùm, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bà U.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động, màu sơn: xanh - đen- xám, nhãn hiệu Nokia 1202, số IMEI: 359356/03/193961/7, bên trong có 01 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0986849152 (đã qua sử dụng) là phương tiện bị cáo T dùng liên lạc mua bán số đề nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;

- Đối với 01 (một) bút bi mực xanh, nhãn hiệu TL-027 (đã qua sử dụng) dùng để thực hiện hành vi phạm tội, không có giá trị nên nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) máy tính màu trắng đen, nhãn hiệu “CASIO ELECTRONIC CALCULATOR” (đã qua sử dụng) là phương tiện bị cáo T dùng vào việc mua bán số đề nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 22 tờ giấy lịch đã được cắt nhỏ, kích thước 6,5 cm x 10,5 cm, không có giá trị sử dụng nên nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Thị T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Thị T số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 14.075.000 (Mười bốn triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng; 01 (một) điện thoại di động, màu sơn: xanh - đen- xám, nhãn hiệu Nokia 1202, số IMEI: 359356/03/193961/7, bên trong có 01 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0986849152 (đã qua sử dụng); 01 (một) máy tính màu trắng đen, nhãn hiệu “CASIO ELECTRONIC CALCULATOR” (đã qua sử dụng).

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bút bi mực xanh, nhãn hiệu TL-027 (đã qua sử dụng); 22 tờ giấy lịch đã được cắt nhỏ, kích thước 6,5 cm x 10,5 cm.

- Trả lại cho bà Trần Thị U số tiền Việt Nam 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Các vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-11-2019.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Phạm Thị T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo Phạm Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị U có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;