Bản án 69/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Lộc Văn H; tên gọi khác: Không có, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1990 tại huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; nơi thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã V, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 07/12; con ông Lộc Văn E, sinh năm 1958 và con bà Dương Thị P, sinh năm 1961 có vợ là Tô Thị N, sinh năm 1997 và có 01 con, sinh năm 2017, hiện sống cùng mẹ; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số: 15/HS-ST ngày 28/8/2008 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Lộc Văn H 20 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 15/02/2019 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Hương Lan - Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước, công tác tại Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

- Bị hại:

1. Anh Lộc Thanh I, sinh năm 1989; địa chỉ: số 16, đường U, thôn G, xã D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

2. Ông Triệu Khánh B, sinh năm 1961, trú tại ngõ 7, khối 6, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nông Văn M; địa chỉ: số 248, đường 3/2, thị trấn O, huyện O, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ, ngày 18/01/2019, Lộc Văn H từ nhà vợ tại xã Bằng Khánh, huyện LB, tỉnh Lạng Sơn ra nhà trọ của anh trai là Lộc Thanh I với mục đích lấy giấy tờ cá nhân. Khi đến nơi, anh I không ở nhà, cửa nhà khóa, H đã mượn chiếc búa sắt của thợ sửa chữa cách nhà anh I khoảng 100m để phá khóa cổng và cửa, H đập liên tiếp cho khóa cửa bung ra và đi vào trong nhà lục tìm giấy tờ cá nhân của mình. Sau khi tìm được giấy tờ, H nhìn thấy chiếc máy tính xách tay (latop Asus K55VD) để trên bàn làm việc của anh I, H liền cất máy tính và dây sạc cho vào túi xách của mình và khóa cửa nhà lại rồi đem chiếc máy tính đến cửa hàng anh Nông Văn M tại: số 248, đường 3/2, thị trấn O, huyện O, tỉnh Lạng Sơn bán được 1.500.000 đồng, sau đó H ra quốc lộ 1A bắt xe ô tô khách đi xuống khu công nghiệp Q, tỉnh P để tìm việc làm, số tiền trên H đã sử dụng để tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 26/01/2019 Lộc Văn H đi từ khu công nghiệp Q, tỉnh P về thành phố L. Khoảng 17 giờ cùng ngày H đến nhà người quen là ông Triệu Khánh B chơi rồi xin ngủ nhờ, ông B đồng ý. H ăn cơm tại nhà ông B đến khoảng 23 giờ thì đi ngủ, H ngủ tại phòng khách của gia đình. Khoảng 01 giờ sáng ngày 27/01/2019, H thức dậy, quan sát thấy chiếc xe môtô Yamaha Sirius BKS 12P1-040.64 màu đỏ của ông B vẫn dựng ở sân nhà, chìa khóa xe để trên bàn kê tivi, mọi người trong gia đình ông B đều đang ngủ say, cổng nhà không khóa, H liền lấy chìa khóa, dắt xe môtô ra ngoài cổng rồi nổ máy điều khiển xe đến đường mòn biên giới Việt Nam - Trung Quốc gần cây xăng S thuộc huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn bán cho một người đàn ông Trung Quốc không rõ lai lịch được 1.200 nhân dân tệ tiền Trung Quốc rồi mang đến thị trấn TK, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn đổi được 4.200.000 đồng tiền Việt Nam và mang đi tiêu xài cá nhân hết.

Tại biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số: 10/ĐGTSTT ngày 21/1/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận, máy tính xách tay laptop Asus K55VD màu đen trị giá: 6.000.000 đồng.

Tại Biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số: 22/ĐGTSTT ngày 18/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 12P 1-040.64 có giá trị: 7.200.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 73/CT-VKS ngày 05/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với bị cáo Lộc Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Lộc Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố.

Bị hại anh Lộc Văn I có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về tài sản, còn ông Triệu Khánh B yêu cầu bị cáo bồi thường 15.000.000 đồng.

Bị cáo cũng nhất trí bồi thường cho bị hại ông Triệu Khánh B với số tiền nêu trên là: 15.000.000 đồng.

Tại phần tranh luận Vị đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn luận tội bị cáo Lộc Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt từ 18 đến 24 tháng tù. Về hình phạt bổ sung, thấy bị cáo không có tài sản riêng nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về phần dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại về tài sản giữa bị cáo với bị hại ông Triệu Khánh B số tiền là: 15.000.000 đồng, về vật chứng, không có.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đều thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Người bào chữa cho bị cáo có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và gửi bài bào chữa, đề nghị xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất mà Vị đại diện viện kiểm sát đề nghị, với các căn cứ giảm nhẹ, là bị cáo khai báo thành khẩn theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số nên đề nghị miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị hại không tranh luận gì.

Vị đại diện viện kiểm sát tranh luận, nhất trí với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo về phần miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Trong ngày 18/01/2019 và ngày 27/01/2019, Lộc Văn H đã 02 lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố L. Cụ thể lần thứ nhất, khoảng 15 giờ ngày 18/01/2019, tại nhà số: 16, đường U, thôn G, xã D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn khi biết không có ai ở nhà Lộc Văn H đã phá cửa nhà và trộm cắp máy tính xách tay Asus trị giá 6.000.000 đồng của anh Lộc Thanh I. Lần thứ hai, khoảng 01 giờ sáng ngày 27/01/2019 tại nhà ông Triệu Khánh B, ngõ 7, khối 6, phường C, thành phố L, Lộc Văn H biết mọi người trong gia đình ông B đang ngủ say nên đã lén lút trộm chiếc xe mô tô Yamaha Sirius BKS 12P1-040.64 trị giá 7.200.000 đồng của ông Triệu Khánh B. Với hành vi bị cáo biết không có ai ở nhà và người quản lý tài sản đã ngủ say nên đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, đã đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản. Nhận thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây dư luận xấu trong nhân dân, bị cáo là người đủ nhận thức về hành vi của mình, nhưng với bản tính lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử lý bị cáo về hình sự và cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Về mức hình phạt, xét thấy đề nghị của Vị đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về hình phạt bổ sung, xét thấy bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng: Trong ngày 18/01/2019 và ngày 27/01/2019, bị cáo Lộc Văn H đã 02 lần thực hiện hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp tài sản đều trị giá trên 2.000.000 đồng trở lên đến dưới 50.000.000 đồng. Do đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để áp dụng xử phạt bị cáo.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa, tại Cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

[7] Về nhân thân, bị cáo có một án tích tuy đã được đương nhiên xóa án nhưng cho thấy bị cáo là người đã vi phạm pháp luật, không lấy đó làm bài học để tự cải tạo, tu dưỡng mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức án tương xứng để răn đe phòng ngừa chung trong xã hội và cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt.

[8] Về phần dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại, cụ thể. Bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho bị hại ông Triệu Khánh B với tổng số tiền là 15.000.000 đồng. Thấy sự tự nguyện thỏa thuận trên không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện thỏa thuận trên.

[9] Vật chứng gồm: Cơ quan điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại tài sản cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về ý kiến bị hại: Anh Lộc Thanh I trình bày ngoài mất chiếc máy tính xách tay, gia đình còn bị mất 02 chỉ vàng 9999 để ở trong ngăn bàn làm việc. Quá trình điều tra không có căn cứ kết luận H trộm cắp 02 chỉ vàng trên, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn cho bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Lộc Văn H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Lộc Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt để tạm giữ, tạm giam là ngày 15/02/2019

2. Về phần dân sự, căn cứ các Điều 584; 585; 589; 357; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại, cụ thể: Bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho bị hại với tổng số tiền là 15.000.000 đồng (mười năm triệu đồng) cho bị hại ông Triệu Khánh B. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông Triệu Khánh B có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị cáo Lộc Văn H không thi hành xong khoản tiền trên thì còn phải trả lãi tương ứng với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn cho bị cáo Lộc Văn H không phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại anh Lộc Thanh I vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;