Bản án 69/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 69/2019/HSST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2019/HSST, ngày 31-5-2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2019/QĐXXST-HS ngày 31-5-2019 đối với bị cáo:

Quàng Văn Đ; tên gọi khác: Quàng Văn L; sinh năm: 1968; tại xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 2/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Quàng Văn Tun; sinh năm 1950 và bà Lường Thị S, sinh năm: 1950; bị cáo có vợ: Lường Thị C, sinh năm: 1968 và 04 con, lớn 33 tuổi, nhỏ 22 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 22-02-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn L; Trú tại: Bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. ( có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 22-02-2019, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Quàng Văn Đ, trú tại: Bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 02 (hai) gói nilon màu trắng, bên trong mỗi gói có chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroine ( Đ khai là Heroine), gói nilon màu trắng thứ nhất có khối lượng 0,12 và gói nilon màu trắng thứ hai có khối lượng 0,07 gam. Rút toàn bộ 0,12 gam ký hiệu L1 và 0,07 gam ký hiệu L2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe ANGELHI, màu sơn nâu đỏ, BKS: 26F1-9247, không xác định được số khung, số máy, xe đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số: 500/KLMT, ngày 25-02-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 và L2 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam và 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,19 gam loại Heroine”. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Quàng Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 11 giờ, ngày 22-02-2019, Quàng Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe ANGELHI, màu sơn nâu đỏ, BKS: 26F1-9247 một mình từ nhà ở bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Đến bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Đ mua được của một người thanh niên dân tộc Thái ( Đ không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) hai gói ma túy đều được gói gói bằng ni lon màu trắng với giá 40.000đ. Sau khi mua được ma túy, Đ cất hai gói ma túy vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Quàng Văn Đ có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ cùng vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 72/CT-VKS, ngày 29-5-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Quàng Văn Đ về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Quàng Văn Đ về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

 Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ mức án từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22-02-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Quàng Văn Đ.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 ( hai) mảnh nilon màu trắng + 01 ( một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

- Tuyên trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quàng Văn L 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe ANGELHI, màu sơn nâu đỏ, BKS: 26F1-9247, không xác định được số khung, số máy, xe đã qua sử dụng.

Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn Đ. Ý kiến của bị cáo Quàng Văn Đ: Không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Ngày 22-02-2019, Quàng Văn Đ; trú tại: Bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 ( hai) gói ma túy có tổng khối lượng 0,19 gam, qua giám định là Heroine. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Quàng Văn Đ tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Quàng Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……………………….

c) Hêrôine, côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Quàng Văn Đ tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Quàng Văn Đ.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Quàng Văn Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Song nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo đã có một tiền án tuy đã được đương nhiên xóa án tích nhưng được coi là nhân thân xấu. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Quàng Văn Đ đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Quàng Văn Đ còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Quàng Văn Đ khai mua của một người thanh niên dân tộc Thái Quàng Văn Đ không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 22-02-2019 với giá 40.000đ. Do chỉ có lời khai duy nhất của Quàng Văn Đ, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[3]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 02 ( hai) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ. X ét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe ANGELHI, màu sơn nâu đỏ, BKS: 26F1-9247, không xác định được số khung, số máy, xe đã qua sử dụng. Bị cáo Quàng Văn Đuôn dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác minh chiếc xe mô tô trên là của anh Quàng Văn L; trú tại: Bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. ( Là con trai của bị cáo Quàng Văn Đ). Việc Quàng Văn Đ lấy xe đi dùng vào việc phạm tội anh Lưu không biết. Anh Quàng Văn L có đơn xin lại xe, do vậy cần tuyên trả lại cho anh Quàng Văn L.

Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Gia đình bị cáo Quàng Văn Đ có giấy chứng nhận hộ nghèo năm 2019. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn Đ. Vận dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Đ ( tên gọi khác: Quàng Văn L) phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ 15 ( mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22-02-2019 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn Đ. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 22- 02-2019. 02 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quàng Văn L: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại xe ANGELHI, màu sơn nâu đỏ, BKS:26F1-9247, không xác định được số khung, số máy, xe đã qua sử dụng.

4. Về Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn Đ.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo cho bị cáo Quàng Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quàng Văn L được kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2019/HSST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;