TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 69/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/12/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU THAY ĐỔI MỨC CẤP DƯỠNG VÀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Trong ngày 04 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 195/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2019 về việc: “ tranh chấp yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng và thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019, giữa:
- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Quế P, sinh năm: 1987
Địa chỉ: Ấp M, xã H, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
- Bị đơn: Anh Lê Hoài P, sinh năm: 1982
Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 09/9/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trương Thị Quế P trình bày: Ngày 04/5/2015 bà và ông Lê Hoài P đã thuận tình ly hôn theo Quyết định số 89/2015/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải. Tại Quyết định ông P đã thỏa thuận giao con chung tên L, sinh ngày 30/3/2013 cho bà nuôi dưỡng, ông P cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền 600.000 đồng, sau khi có quyết định, ông P thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đầy đủ.
Tuy nhiên hiện nay bà phải đi học nâng chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, cháu L đã đến tuổi đi học, nhu cầu sinh hoạt của cháu ngày càng cao, mức sống người dân hiện tại đã thay đổi, số tiền cấp dưỡng hàng tháng của ông Lê Hoài P cho con không đủ đáp ứng nhu cầu chi phí cho bé. Nay bà yêu cầu ông Lê Hoài P tăng mức cấp dưỡng cho cháu L, sinh ngày 30/3/2013 từ 600.000 đồng/tháng lên 900.000 đồng/tháng. Bà không đồng ý theo yêu cầu thay đổi người nuôi con của ông Lê Hoài P.
Tại bản tự khai, đơn yêu cầu phản tố ngày 16/10/2019 và tại phiên tòa bị đơn ông Lê Hoài P trình bày: Ông và bà P thuận tình ly hôn theo Quyết định số 89/2015/QĐST-HNGĐ ngày 04/5/2015, đồng thời ông tự nguyện trợ cấp nuôi con hàng tháng là 600.000 đồng. Nay bà P yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng lên 900.000 đồng/tháng ông không đồng ý vì: Bà P đã nhiều lần yêu cầu nâng mức cấp dưỡng; Ông thực hiện theo quy định Nhà nước; Hàng tháng ông có đi thăm và mua quần áo, vật dụng cá nhân cho cháu L. Hiện nay bà P phải đi làm xa cách nhà 60km, không trực tiếp nuôi con, cháu L phải nhờ ông bà ngoại chăm sóc, mỗi tuần bà P chỉ về thăm con một lần. Bản thân ông sống chung với mẹ ruột, đi làm cách nhà 13km, được bố trí thời gian dạy vào buổi chiều, mẹ ông ở nhà chỉ có một mình. Do đó ông có thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dạy cháu L tốt. Nay ông yêu cầu thay đổi quyền nuôi con lại cho ông và bà P phải cấp dưỡng nuôi con là 600.000 đồng/tháng.
Vụ kiện đã được Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được, nên Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Quan điểm của vị kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải:
Về tố tụng: Về trình tự thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, người tham gia tố tụng, thành phần hòa giải và thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều đúng theo quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn kiện, thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt hợp lệ, đầy đủ và tại phiên tòa sơ thẩm Hội đồng xét xử đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Tòa án áp dụng Điều 71, 82, 83, 84, 110, 116, 117 119 Luật Hôn nhân gia đình: Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Hoài P yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Quế P, buộc ông Lê Hoài P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu L số tiền 900.000 đồng/tháng; Buộc các đương sự có nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Bà Trương Thị Quế P khởi kiện yêu cầu thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con chung, đây là quan hệ tranh chấp về cấp dưỡng theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do ông Lê Hoài P có nơi cư trú và làm việc tại thị xã D, tỉnh Trà Vinh nên vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Theo Quyết định số 89/2015/QĐST-HNGĐ ngày 04/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải thì bà Trương Thị Quế P và ông Lê Hoài P thuận tình ly hôn. Về con chung cháu L, sinh ngày 30/3/2013 ông Hoài P tự nguyện để bà Quế P tiếp tục nuôi dưỡng, ông Hoài P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng 600.000 đồng. Ông Hoài P cấp dưỡng đầy đủ số tiền trên đến tháng 11/2019 thực hiện đúng theo quy định tại Khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Xét yêu cầu phản tố thay đổi người trực tiếp nuôi con của ông Lê Hoài P: Qua xác minh từ chính quyền địa phương ấp L, xã N, huyện C và bà Huỳnh Thị Lệ T (mẹ ruột chị Quế P) là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu L: Điều kiện kinh tế gia đình bà T đảm bảo đủ điều kiện để hỗ trợ bà Quế P nuôi dưỡng cháu L học hành, vui chơi; mặc dù cháu L do bà T nuôi dưỡng nhưng hàng tuần bà Quế P vẫn về chăm sóc, dạy dỗ cháu L, mỗi tháng bà Quế P đều gửi tiền cho bà để phụ nuôi cháu L, hiện cháu L đang học lớp 1 tại Trường tiểu học C; gia đình bà T vẫn tạo điều kiện tốt cho ông Hoài P thăm nom cháu L; chính quyền địa phương không nghe thông tin gì về việc ngăn cản không cho ông Hoài P thăm con. Qua xác minh từ chính quyền địa phương Khóm A, Phường A, thị xã D thì điều kiện kinh tế gia đình ông Hoài P khá, môi trường sống tốt, đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con cái; tuy nhiên hiện nay ông Hoài P đã lập gia đình khác và có một người con khoảng trên dưới một tuổi hiện đang sống cùng mẹ tại xã K, huyện D. Đồng thời ông Hoài P không chứng minh được bà Quế P không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con. Xét thấy, từ năm 2015 sau khi có Quyết định công nhận thuận tình ly hôn của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải giao cháu L cho bà Trương Thị Quế P nuôi dưỡng, dù điều kiện đi làm xa nhà, cháu L phải nhờ ông bà ngoại chăm sóc nhưng bà Quế P vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L chu đáo về mọi mặt, cháu L được tạo điều kiện tốt để vui chơi, học hành, phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần; mặc dù cháu L chưa đủ 7 tuổi nhưng qua trao đổi, tiếp xúc, nguyện vọng cháu là muốn được sống với mẹ và ông bà ngoại. Hiện nay cháu L đã được ổn định về điều kiện sống, học tập, không cần thiết thay đổi môi trường sinh hoạt làm xáo trộn cuộc sống của cháu L, từ đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phản tố thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của ông Lê Hoài P.
[4] Quá trình bà P nuôi cháu L, ngày càng phát sinh nhiều chi phí ăn học cho cháu, vật giá thị trường ngày càng cao nên số tiền mà ông P cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng 600.000 đồng cộng thêm phần tiền lương của bà P vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cháu L. Do đó, lý do bà P yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con 900.000 đồng/tháng là chính đáng, phù hợp theo quy định tại Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình.
Theo Bảng lương cán bộ, giáo viên, công nhân viên tháng 10/2019 của đơn vị Trường trung học cơ sở T thì tiền lương thực lãnh của ông Lê Hoài P là 6.436.984 đồng, của bà Quế P là 5.133.277 đồng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình thì “ Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên,…” vì vậy nghĩa vụ nuôi cháu L là nghĩa vụ chung của ông Hoài P và bà Quế P. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Quế P buộc ông Hoài P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cháu L mỗi tháng 900.000 đồng đến khi cháu L tròn 18 tuổi.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Hoài P phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con và án phí cho yêu cầu phản tố không được chấp nhận theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 71, khoản 2 Điều 82, 84, 110, 116, 117, 119 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu phản tố thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn của ông Lê Hoài P.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Quế P.
Buộc ông Lê Hoài P có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu L, sinh ngày 30/3/2013 mỗi tháng là 900.000 (Chín trăm nghìn) đồng, cấp dưỡng cho đến khi cháu L tròn 18 tuổi, thời gian bắt đầu tính từ tháng 12/2019.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Hoài P phải chịu 600.000 ( sáu trăm ngàn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0004853 ngày 25/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duyên Hải thu, ông Lê Hoài P còn phải nộp tiếp là 300.000 đồng. Bà Trương Thị Quế P không phải chịu án phí.
Báo cho các đương sự có mặt tại Tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 04/12/2019 về tranh chấp yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng và thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 69/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/12/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về