Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 69/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Trong ngày 04 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 214/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/5/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/6/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1986 (có mặt).

Địa chỉ: 740/30, tổ 30, ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A.

2. Bị đơn: ông Trình Bá N, sinh năm 1979 (có mặt).

Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 10/6/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H trình bày: bà H và ông N tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2005, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian đầu bà H và ông N chung sống hạnh phúc sinh được 01 con chung tên Trình Thị Thiên N, sinh ngày 14/11/2007. Sau đó, bà H và ông N phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nên thường xuyên cãi vã nhau. Đến năm 2014 thì mâu thuẫn giữa bà H và ông N đã trầm trọng nên bà H dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Thời gian sống ly thân, gia đình hai bên có động viên bà H và ông N quay về chung sống nhưng vẫn không có kết quả. Quá trình chung sống, bà H và ông N có một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay bà H yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: bà H yêu cầu ly hôn với ông Trình Bá N.

- Về con chung: bà H đồng ý giao cháu N cho ông N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung: tự thỏa thuận; về nợ chung: không có.

Tại tờ tự khai ngày 10/6/2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Trình Bá N trình bày: ông N và bà H tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2005, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian chung sống, bà H và ông N sinh được 01 con chung tên Trình Thị Thiên N, sinh ngày 14/11/2007. Ông N và bà H chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nên thường xuyên cãi vã nhau. Đến năm 2014 thì giữa ông N và bà H mâu thuẫn trầm trọng nên bà H dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Thời gian sống ly thân, ông N vẫn thường xuyên đến thăm con và cũng mong muốn hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng bà H không đồng ý. Sau đó, ông N rước cháu N về chung sống cho đến nay. Quá trình chung sống, ông N và bà H có một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay bà H yêu cầu ly hôn thì ông N có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: ông N đồng ý ly hôn với bà Nguyễn Thị Thúy H.

- Về con chung: cháu Trình Thị Thiên N hiện đang sống chung với ông N nên ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: tự thỏa thuận; về nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trình Bá N đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã V, huyện T, tỉnh A nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của bà H, thấy rằng: bà H và ông N tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2005. Thời gian đầu bà H và ông N chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn nên bà H về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Về phía bị đơn ông N cho rằng, ông và bà H sống ly thân đã lâu nên ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà H. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà H với ông N đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, vì vậy không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.

Tại khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”. Bà H yêu cầu ly hôn với ông N, nhưng do bà H với ông N không có đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Thúy H với ông Trình Bá N.

[3] Về quan hệ con chung: bà H và ông N có 01 con chung tên Trình Thị Thiên N, sinh ngày 14/11/2007. Bà H đồng ý cho ông N được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N. Tại biên bản ghi nguyện vọng của cháu N ngày 10/6/2019 thì cháu muốn được sống với ba. Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên; cháu N đang sống chung với ông N và được học hành ổn định. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu N, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên chấp nhận yêu cầu của ông N, giao cháu Trình Thị Thiên N cho ông Ntiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà H trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Ông N không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: bà H và ông N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: không có.

[6] Do bà Nguyễn Thị Thúy H yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thúy H.

- Về quan hệ hôn nhân: tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Thúy H với ông Trình Bá N.

- Về quan hệ con chung: bà H và ông N có 01 con chung tên Trình Thị Thiên N, sinh ngày 14/11/2007.

+ Giao cháu Trình Thị Thiên N cho ông Trình Bá N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu N đang sống chung với ông N). Bà Nguyễn Thị Thúy H không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Ông Trình Bá N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Nguyễn Thị Thúy H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về nợ chung: ghi nhận bà H và ông N xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà H và ông N trong thời kỳ hôn nhân thì bà Nguyễn Thị Thúy H và ông Trình Bá N phải liên đới trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí sơ thẩm: bà Nguyễn Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000196 ngày 16/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:69/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;