TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 69/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 319/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 319/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 757/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lã Thị Thúy V; nơi cư trú: đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức H; nơi ĐKHKTT: đường A1, phường B1, quận C1, thành phố Hải Phòng; hiện đang thi hành án tại Đội 56, phân trại 6 trại giam Phú Sơn 4 - Bộ Công an; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 04 tháng 7 năm 2018, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn là chị Lã Thị Thúy V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh H kết hôn trên cở sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình và có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam vào cuối năm 2007, nhưng đến ngày 20 tháng 9 năm 2008 anh chị mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc thời gian ngắn sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, lối sống không hòa hợp. Anh H thường đi làm xa nhà, ít quan tâm đến vợ con, vợ chồng hay xảy ra to tiếng, đánh nhau. Ngày 12 tháng 02 năm 2010, do cùng bạn bè làm ăn và bất đồng nên anh H đã vi phạm pháp luật và đã bị Tòa án xét xử 18 năm tù về tội “Giết người”. Từ ngày 11 tháng 5 năm 2011 cho đến nay, anh H đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4. Từ khi anh H không có ở nhà, Chị V đã chăm sóc bố mẹ chồng và con đúng trách nhiệm nhưng luôn bị ức chế và áp lực từ phía gia đình anh H. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H, thực sự không còn, khả năng đoàn tụ không có. Để ổn định cuộc sống của hai mẹ con, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức H.
Về việc nuôi con: Chị V và anh H có một con chung là Nguyễn Bảo N, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2009. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Bảo N cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Chị không yêu cầu anh H góp tiền nuôi con.
Về việc chia tài sản: Chị V và anh H không có tài sản chung, Chị V không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 08 tháng 9 năm 2018, bị đơn là anh Nguyễn Đức H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh H thống nhất về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như lời trình bày của Chị V. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhỏ do bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 02 năm 2010, anh H bị bắt giam và đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Phú Sơn 4 về tội “Giết người”, thời hạn 18 năm. Anh H không đồng ý ly hôn vì vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn và trầm trọng. Vì vậy, anh H không đồng ý ly hôn.
Về việc nuôi con: Vợ chồng anh có một con chung như lời trình bày của Chị V. Anh không đồng ý với yêu cầu nuôi con của Chị V.
Về việc chia tài sản: Vợ chồng anh có một số tài sản mà không tiện nói ra nhưng anh H cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên có ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về pháp luật tố tụng:
[1] Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn là anh Nguyễn Đức H. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm đúng các quy định của pháp luật.
- Về pháp luật nội dung:
Về quan hệ hôn nhân:
[3] Chị Lã Thị Thúy V và anh Nguyễn Đức H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, nên là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa, Chị V giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh H. Anh H không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét: Mâu thuẫn của vợ chồng Chị V và anh H phát sinh do hai bên có bất đồng trong quan điểm sống. Năm 2010, anh H vi phạm pháp luật và hiện đang chấp hành án tại Trại giam với mức hình phạt 18 năm tù. Thời gian vợ chồng Chị V, anh H chung sống còn ít hơn thời gian anh H phải chấp hành hình phạt tù, dẫn tới tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Anh H trình bày không muốn ly hôn với Chị V, nhưng Chị V kiên quyết xin ly hôn với anh H vì đã không còn tình cảm với anh H. Chị không đồng ý nói chuyện, hòa giải với anh H. Xét mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình mà ở đó vợ chồng phải biết yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt; phải được xây dựng trên nền tảng tình cảm, sự nỗ lực từ hai phía của cả vợ và chồng. Trên thực tế quan hệ hôn nhân của Chị V và anh H đã lầm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hải theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Về việc nuôi con:
[4] Vì anh H đang chấp hành án tại trại giam nên không thể có điều kiện và thời gian chăm sóc cho cháu tốt hơn Chị V. Xét yêu cầu của Chị V được nuôi con Nguyễn Bảo N là phù hợp, đúng quy định của pháp luật và nguyện vọng của cháu Ngọc, nên cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con, Chị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh H đến khi chị V có yêu cầu.
Về việc chia tài sản:
[5] Chị V và anh H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét. Về án phí:
[6] Chị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 35, 147, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của của Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14;
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lã Thị Thúy V và anh Nguyễn Đức H.
2. Về việc nuôi con: Giao con chung là Nguyễn Bảo N, sinh ngày 03 tháng 3 năm 2009 cho chị Lã Thị Thúy V trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Nguyễn Đức H cho đến khi chị Lã Thị Thúy V có yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lã Thị Thúy V phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng Chị V đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014774 ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Lã Thị Thúy V đã nộp đủ tiền án phí.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 69/2018/HNGĐ-ST ngày 16/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 69/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về