Bản án 68/2023/HS-ST về tội làm nhục người khác

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2023/QĐXX - HSST ngày 19 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Hoàng Văn C, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Thôn MT, xã VT, huyện BV, thành phố Hà Nội. Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Hoàng Văn Đ, sinh năm 1938 và bà Lê Thị V, sinh năm 1950; Vợ: Phùng Thị L, sinh năm 1981. Con có ba con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 19/9/1999, C bị Công an huyện Ba Vì khởi tố về tội Cố ý gây thương tích. Ngày 11/10/1999, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã ra Quyết định đình chỉ bị can số 11 đối với Hoàng Văn C.

- Tại Bản án số 71 ngày 17/8/2010, TAND thị xã Lai Châu – Lai Châu xử phạt Hoàng Văn C 5.000.000đ về tội Đánh bạc. C đã chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/4/2023 đến ngày 16/6/2023 được tại ngoại.

(Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại:

+ Chị Trần Thị Thúy H1, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn XT, xã GP, huyện BT, tỉnh Lào Cai (Vắng mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2021, Hoàng Văn C lập và sử dụng 01 tài khoản mạng xã hội “Bigo live” với ID: “henemkiepsau” và lấy ảnh hiển thị là hình ảnh trái tim màu đỏ. Tài khoản Bigo này C đăng ký bằng tài khoản Gmail của C có tên hoangbaotu67@gmai.com. C đăng nhập trên thiết bị điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO RENO2 F màu đen của C. Trong quá trình sử dụng Bigo, C có quen biết với tài khoản của chị Trần Thị Thu H1 có ID là: H0586 với tên hiển thị là “Thu H1”. Khi H1 livestream, C thường vào xem và nhắn tin cho H1. Sau đó, C sử dụng tài khoản Zalo tên “Loan” (nay đã đổi tên thành “Maiphat”) được đăng ký bằng số điện thoại 0984.X.X đăng nhập trên điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đen của C để kết bạn với tài khoản Zalo tên “MC Thu H1” được đăng ký bằng số điện thoại 0346.635.X.

Sau khi kết bạn qua Zalo, C và H1 thường xuyên nhắn tin, gọi điện thoại video cho nhau nên C và H1 biết rõ tên tuổi, địa chỉ của nhau. Khoảng thời gian này, H1 thường livestream trên Bigo. Khi H1 livestream, C đã nhiều lần nạp tiền vào tài khoản Bigo của C để mua các món quà ảo tặng cho H1, ước tính số tiền C nạp để tặng quà cho H1 khoảng gần 100.000.000 đồng. Với quà nhận được từ Bigo thì chị H1 có thể đổi rút thành tiền thực khoảng 30.000.000 đồng. Việc C tặng quà là hoàn toàn tự nguyện. Vì C nhiều lần tặng quà nên H1 cũng yêu mến C. H1 và C nảy sinh tình cảm yêu nhau. Do C và H1 ở khoảng cách xa không có điều kiện gặp nhau nên đã rủ nhau cùng gọi video khỏa thân để thỏa mãn nhu cầu tình dục cho nhau (chat sex). Những lần “chat sex”, H1 đều khỏa thân. Trong các lần chat sex này, C đều chụp ảnh lại lưu vào trong điện thoại nhãn hiệu OPPO RENO2 F của C mục đích giữ làm kỷ niệm. Khoảng thời gian sau đó, C cũng có quen một số tài khoản Bigo của những người phụ nữ khác và tặng quà cho những người này. Biết được điều này nên H1 nảy sinh mâu thuẫn muốn chấm dứt mối quan hệ với C. C đề nghị H1 trả lại số tiền mà C đã tặng quà cho H1 qua Bigo. H1 muốn cắt đứt các quan hệ với C nên ngày 05/01/2022 đã chuyển tiền vào tài khoản số 2210205232X, ngân hàng AGRIBANK (là tài khoản ngân hàng của C) số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên sau đó, C và H1 vẫn tiếp tục nhắn tin cho nhau qua Zalo và vẫn còn tình cảm yêu nhau.

Vào khoảng đầu tháng 6/2022, H1 đưa con gái lớn của H1 về nội thành Hà Nội để học đại học. Do đó, C và H1 đã hẹn nhau để quan hệ tình dục với nhau tại nhà nghỉ An Phú, cạnh bến xe Mỹ Đình. Thời gian sau đó, C và H1 nhiều lần quan hệ tình dục với nhau tại nhiều địa điểm khác nhau trong nội thành Hà Nội. Khi quan hệ tình dục C không quay lại video, không chụp ảnh. Từ khoảng tháng 6/2022 đến tháng 02/2023, C và H1 quan hệ tình dục với nhau khoảng gần 20 lần. Đến ngày 20/3/2023, H1 lấy lý do con gái đã chuyển về học tại Lào Cai để xa lánh, tránh gặp C và quan hệ tình dục với C. Sau đó, C và H1 thường xuyên xảy ra xích mích cãi chửi nhau. H1 đã chặn liên lạc qua các tài khoản mạng xã hội của C, không nghe điện thoại của C. Bực tức vì điều này nên C nảy sinh ý định dùng các hình ảnh khỏa thân của H1, những lần C và H1 “chat sex”, thủ dâm qua điện thoại với nhau mà C chụp và lưu lại được trước đó để gửi cho người thân của H1 làm nhục H1 và gây áp lực để H1 tiếp tục yêu C.

Thực hiện được hành vi trên, C nhớ có lần H1 có gửi cho C hình ảnh có hiện số điện thoại của em dâu của H1. C sử dụng tài khoản Zalo tên “Loan” của C để tìm kiếm số điện thoại đăng ký Zalo của em dâu của H1 và gửi lời mời kết bạn thì được đồng ý. Em dâu H1 sử dụng tài khoản Zalo tên “Nguyen Huyen”. C nhắn tin qua Zalo xin em dâu H1 cho số điện thoại của người thân trong gia đình.

Ngày 10/4/2023, C sử dụng điện thoại nhãn hiệu OPPO F7 của C để gửi những tin nhắn SMS các hình ảnh khỏa thân của H1, những lần H1 và C “chat sex” với nhau mà C đã chụp màn hình và lưu lại được cho mẹ chồng, chồng, em chồng H1 và em dâu của H1. Kèm theo các hình ảnh là các tin nhắn C sỉ nhục H1, chế nhạo H1 là cave nhằm hạ thấp uy tín, danh dự và làm nhục H1 trước gia đình nhà chồng của H1, khiến cho H1 phải phụ thuộc C để quay lại tiếp tục yêu C.

Do biết tài khoản facebook của H1 cũng có nhiều người theo dõi bình luận nên C tiếp tục nảy sinh ý định bôi nhọ danh dự, hạ thấp uy tín của H1 thông qua mạng xã hội facebook. Thực hiện ý định trên, C sử dụng tài khoản facebook của C đăng ký bằng số điện thoại 0372664709 với tên hiển thị là “C Hoàng”. Tài khoản này của C đã được lập và sử dụng từ lâu nhưng trước đây C ít sử dụng. C đã đổi tên tài khoản từ “C Hoàng” thành tên hiển thị là “Thảo Trang Cưới Hỏi” và lấy ảnh đại diện là một người phụ nữ mặc váy màu đen được C lấy từ trên mạng. Mục đích C đổi tên tài khoản là để tránh bị lộ tên thật và đồng thời để dễ dàng kết bạn với hội nhóm sự kiện cưới hỏi tại Lào Cai do H1 làm MC đám cưới, sự kiện tại Lào Cai. C sử dụng tài khoản facebook trên kết bạn với rất nhiều người ở tại Lào Cai đều là những người có quen biết với H1. Sau đó, C thường xuyên sử dụng tài khoản facebook “Thảo Trang Cưới Hỏi” để phát trực tiếp nói về việc C và H1 có quan hệ tình dục với nhau cho bạn bè của H1, gia đình H1 biết. Trong lúc phát trực tiếp C còn mở các hình ảnh khỏa thân của H1 cho mọi người theo dõi xem. Ngoài ra, C còn dùng tài khoản facebook này để đăng bài với những câu từ xúc phạm kèm theo hình ảnh khỏa thân của H1. Mục đích của C làm như vậy để hạ thấp uy tín, danh dự, nhân phẩm của H1, ép buộc H1 quay lại quan hệ tình cảm với C. H1 nhiều lần liên lạc cho C để xin C gỡ những hình ảnh trên. C cũng sẽ đồng ý gỡ của H1 nếu H1 tiếp tục quay lại yêu C. Tuy nhiên H1 không đồng ý. Do đó, C thường xuyên đăng tải các hình ảnh H1 khỏa thân lên mạng xã hội facebook. Trong một thời gian từ ngày 20/3/2023 đến ngày 17/4/2023, hàng ngày C đều lên mạng xã hội facebook để phát trực tiếp, đăng tải các hình ảnh khỏa thân của H1 qua tài khoản facebook của C là “Thảo Trang Cưới Hỏi”. Những lần đăng tải hình ảnh này đều có rất nhiều lượt người xem và bình luận. Đối với những bài đăng có chứa hình ảnh H1 khỏa thân, do sợ tài khoản facebook bị khóa nên C chỉ đăng tải trong một khoảng thời gian từ 1-2 giờ đồng hồ, sau đó C sẽ tự xóa những bài đăng có hình ảnh khỏa thân của H1. Trong thời gian dài bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của bản thân nên chị H1 đã có đơn tố giác đến Công an huyện Ba Vì điều tra, giải quyết vụ việc trên.

Tại CQĐT, C đã khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân như trên.

- CQĐT Tiến hành kiểm tra điện thoại OPPO F2 của C xác định:

+ Tại thư mục ảnh thu giữ nhiều hình ảnh khỏa thân của chị H1 + Tại ứng dụng tin nhắn có chứa các nội dung C gửi hình ảnh khỏa thân của H1 cho người trong gia đình của H1 kèm nội dung bôi nhọ, xúc phạm H1.

+ Tại ứng dụng facebook được đăng nhập có chứa các nội dung C đăng tải nhiều bài viết có nội dung nói xấu, bôi nhọ H1.

+ Tại ứng dụng messenger được đăng nhập bằng tài khoản facebook trên có các đoạn tin nhắn C gửi hình ảnh khỏa thân của H1 cho một số tài khoản khác kèm theo nội dung bôi nhọ chị H1.

- Tiến hành kiểm tra điện thoại OPPO RENO 2F của C:

+ Trong thư mục ảnh có lưu giữ nhiều hình ảnh khỏa thân của chị H1

+ Tại ứng dụng facebook được đăng nhập tài khoản “Thảo Trang Cưới Hỏi” có chứa các nội dung C đăng tải nhiều bài viết có nội dung nói xấu, bôi nhọ H1.

+ Tại ứng dụng messenger đăng nhập bằng tài khoản facebook trên có các đoạn tin nhắn C gửi hình ảnh khỏa thân của H1 cho một số tài khoản khác kèm theo nội dung bôi nhọ, xúc phạm chị H1.

Về dân sự: Gia đình Hoàng Văn C đã trả lại cho chị Trần Thị Thúy H1 số tiền 50.000.000đ (H1 chuyển cho C trước đó) và bồi thường cho chị H1 số tiền 40.000.000đ. Chị H1 không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

* Đồ vật, tài liệu thu giữ gồm:

- 04 (bốn) vi bằng các số 137, 139, 140, 138 ngày 23/3/2023 của Văn phòng thừa phát lại Thăng Long- Hà Nội có nội dung liên quan đến hành vi của C làm nhục chị H1 do chị H1 cung cấp.

- 01 điện thoại OPPO RENO F2, màu đen và 01 điện thoại OPPO 2F, màu đen là điện thoại của C.

* Bản cáo trạng số: 54/CT-VKS ngày 22 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội truy tố Hoàng Văn C về tội “Làm nhục người khác” theo điểm a, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.

* Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội“ Làm nhục người khác” Áp dụng: Điểm a, e khoản 2 Điều 155, điểm s,b khoản 1 Điều 51, Điều 65, Bộ luật hình 2015, xử phạt bị cáo Hoàng Văn C từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là từ 12 đến 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Về dân sự: Gia đình bị cáo đã trả lại cho chị Trần Thị Thúy H1 số tiền 50.000.000đ (H1 chuyển cho C trước đó) và bồi thường cho chị H1 số tiền 40.000.000đ. Chị H1 không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự. Nên không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại OPPO RENO F2, màu đen và 01 điện thoại OPPO 2F, màu đen là điện thoại của C. Đây là phương tiện công cụ Hoàng Văn C dùng để thực hiện hành vi phạm tội do vậy cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.

- 04 (bốn) vi bằng các số 137, 139, 140, 138 ngày 23/3/2023 của Văn phòng thừa phát lại Thăng Long- Hà Nội có nội dung liên quan đến hành vi của C làm nhục chị H1 do chị H1 cung cấp. Lưu hồ sơ vụ án.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã nêu. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 20/3/2023 đến ngày 17/4/2023, Hoàng Văn C đã nhiều lần sử dụng mạng xã hội Zalo, Facebook để gửi các hình ảnh khỏa thân của chị Trần Thị Thu H1 kèm theo nhiều nội dung nói xấu, bôi nhọ H1 cho người thân trong gia đình chị H1 xem và đăng tải lên trang Facebook của C, lên những buổi livestream của C trên mạng xã hội Facebooks để nhiều người biết với mục đích để bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, làm nhục chị H1. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm nhục người khác” theo qui định tại điểm a, e khoản 2 Điều 155 BLHS. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội Làm nhục người khác theo điểm a, e khoản 2 Điều 155 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. [3]. Xét tính chất của vụ án ít nghiêm trọng. Tuy nhiên xuất phát từ việc yêu đương nam nữ dẫn đến việc bị cáo chụp và lưu lại những hình ảnh đồi trụy của bị hại nên khi bị hại muốn chấm dứt quan hệ yêu đương với bị cáo, bị cáo đã có hành vi gửi những hình ảnh đồi trụy đã lưu, nói xấu, bôi nhọ bị hại trên messenger, facebook, zalo trong đó chủ yếu là gia đình, bạn bè, người quen của bị hại, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của bị hại khiến bị hại cảm thấy xấu hổ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bức xúc, bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói C.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường danh dự nhân phẩm cho bị hại số tiền 40.000.000đ và trả lại cho bị hại số tiền 50.000.000đ (H1 chuyển cho C trước đó), tổng cộng là 90.000.000đ, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên ngày 19/9/1999, C có hành vi Cố ý gây thương tích bị Công an huyện Ba Vì khởi tố. Ngày 11/10/1999, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã ra Quyết định đình chỉ bị can số 11 đối với Hoàng Văn C.

- Ngày 17/8/2010, C bị TAND thị xã Lai Châu – Lai Châu xử phạt 5.000.000đ về tội “Đánh bạc”. Tại Bản án số 71. Ngày 26/10/2011 C đã chấp hành xong hình phạt chính và án phí nên đã được xóa án tích.

Qua phân tích và nhận định trên. Sau khi xem xét toàn diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Hoàng Văn C đã có gia đình vợ con lẽ ra bị cáo phải chấp hành nghiêm chỉnh các qui định của địa phương cũng như chính sách pháp luật của nhà nước, làm gương cho con cháu noi theo. Xong chỉ vì có mối quan hệ bất chính giữa bị cáo và bị hại mà bị cáo đã có hành vi phát tán những hình ảnh đồi trụy, nói xấu, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của bị hại. Lẽ ra phải áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ sau khi gây án bị cáo và gia đình đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường danh dự nhân phẩm cho bị hại số tiền 40.000.000đ và trả lại cho bị hại số tiền 50.000.000đ (H1 chuyển cho C trước đó), tổng cộng là 90.000.000đ, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội trong trường hợp có lỗi của cả từ người bị hại. Đối với chị Trần Thị Thu H1, khi phát sinh quan hệ tình cảm, chát sex và quan hệ tình dục với bị cáo, chị H1 vẫn đang tồn tại hôn nhân hợp pháp với anh Nguyễn Văn Cường, đây là hành vi không phù hợp đạo đức xã hội. Mặc dù chưa đến mức bị xử phạt hành chính hay xử lý trách nhiệm hình sự về việc vi phạm chế độ hôn nhân nhưng để xảy ra vụ án này có một phần lỗi của người bị hại trong việc để bị cáo có những hình ảnh nhạy cảm để phát tán khi có mâu thuẫn. Do vậy không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng khoản 1,2,5 Điều 65 BLHS năm 2015 áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo C về nơi cư trú để giám sát giáo dục bị cáo cũng đủ sức giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã trả lại cho chị Trần Thị Thúy H1 số tiền 50.000.000đ (H1 chuyển cho C trước đó) và bồi thường cho chị H1 số tiền 40.000.000đ. Nay chị H1 không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự. Nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5].Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 điện thoại OPPO RENO F2, màu đen và 01 điện thoại OPPO 2F, màu đen là điện thoại của C. Đây là phương tiện công cụ Hoàng Văn C dùng để thực hiện hành vi phạm tội do vậy cần tịch thu phát mại để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 04 (bốn) vi bằng các số 137, 139, 140, 138 ngày 23/3/2023 của Văn phòng thừa phát lại Thăng Long- Hà Nội do chị H1 cung cấp. Đây là những tài liệu chứng cứ có nội dung liên quan đến hành vi làm nhục của C đối với chị H1. Do vậy cần Lưu hồ sơ vụ án.

[6]. Về án phí: Áp dụng điều khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Làm nhục người khác”.

2. Áp dụng: Điểm a, e khoản 2 Điều 155, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Hoàng Văn C 12 ( mười hai ) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng. Kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Hoàng Văn C về UBND x VT, huyện BV, thành phố Hà Nội, để giám sát và giáo d c trong thời gian thử thách. ia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp cùng với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo d c người đó. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa v theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đ cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

3. Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu để phát mại sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại OPPO RENO F2, màu đen đã cũ hỏng, không khởi động được, bên trong có gắn 01 thẻ sim cũ. và 01 điện thoại OPPO 2F, màu xanh đã cũ hỏng, không khởi động được, bên trong có gắn 01 thẻ sim cũ. Đây là phương tiện công cụ Hoàng Văn C dùng để thực hiện hành vi phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/7/2023. giữa Chi c c Thi hành án dân sự huyện Ba Vì và CQĐT Công an huyện Ba Vì).

4. Án phí : Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

khoản 1 Điều 23 Nghị quyết : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Bị cáo Hoàng Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2023/HS-ST về tội làm nhục người khác

Số hiệu:68/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;