TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 68/2023/DS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 06 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 331/2022/TLST-DS ngày 21 tháng 11 năm 2022 về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2023/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 216/2023/QĐST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Châu Minh T, sinh năm 1973 (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ H, sinh năm 1994 (vắng mặt).
Cùng cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Châu Ngọc Q, sinh năm 1996.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Q: Ông Châu Minh T, sinh năm 1973 (có mặt).
Cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 9 năm 2022 và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguyên đơn ông Châu Minh T trình bày yêu cầu khởi kiện:
Vào lúc 18 giờ ngày 06 tháng 8 năm 2020, gia đình ông T có mở tiệc nhậu trong nhà thì Nguyễn Vũ H ngang nhiên đến tông cửa cổng vào, nên ông T ra hỏi thì H nói đi đánh mày đó, sau đó H xong vào rượt đuổi đánh ông T té xuống thì H đạp xe ngã lên người của ông T làm cho ông T bất tỉnh. Gia đình ông T có gọi điện thoại cho Công an xã Phú Hưng thì khoảng 30 phút sau Công an xã Phú Hưng đến lập biên bản và ra về. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày H quay lại lúc này H cầm theo hung khí đó là một khúc cây, H đe dọa và dùng những lời lẽ thô tục chửi, xúc phạm ông T và đòi đốt nhà ông T, sau đó ông T mới gọi điện thoại cho Công an xã Phú Hưng lần nữa thì Công an xã Phú Hưng kêu đóng cửa ngũ đi.
Ngày 07 tháng 8 năm 2020 ông T nằm viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Cái Nước đến ngày 13/8/2020 thì xuất viện nhưng chưa khỏi bệnh, sau khi nằm viện điều trị về vẫn phải đến Bệnh viện đa khoa huyện Cái Nước tái khám và lấy thuốc. Sau khi sự việc xảy ra gia đình và bản thân của H không bồi thường cho ông T một khoảng tiền nào, toàn bộ chi phí điều trị, đi lại đều do ông T tự chịu mà H không có trách nhiệm gì về hành vi của mình gây ra.
Từ những lý do nêu trên, nên ông Châu Minh T yêu cầu ông Nguyễn Vũ H bồi thường thiệt hại với số tiền là 46.040.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng), gồm các khoản tiền như sau:
1. Tiền viện phí từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày = 250.000 đồng.
2. Tiền ăn của người bệnh ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 150.000 đồng = 1.050.000 đồng.
3. Tiền ăn của người nuôi bệnh ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 120.000 đồng = 840.000 đồng.
4. Tiền không đi nuôi gà mướn từ ngày 07/8/2020 đến ngày 22/12/2020 là 135 ngày x 200.000 đồng = 27.000.000 đồng.
5. Tiền công người nuôi bệnh từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 200.000 đồng = 1.400.000 đồng.
6. Tiền xe taxi đi từ ấp Nhà Phấn, xã Phú Hưng đến Bệnh viện Cái Nước ngày 07/8/2020 và về ngày 13/8/2020 là 02 lượt = 500.000 đồng.
7. Tiền xe ôm đi từ nhà đến Bệnh viện Cái Nước 01 lần vào ngày 24/8/2020 = 100.000 đồng.
8. Tiền tổn thất tinh thần là 10 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng.
Bị đơn ông Nguyễn Vũ H, Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, hết thời hạn pháp luật quy định mà ông H không có văn bản trả lời cho Tòa án; Tòa án tống đạt thông báo về phiên họp và phiên hòa giải 02 lần nhưng ông H vẫn không có mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được, quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn ông T vẫn bảo lưu yêu cầu như trình bày trên.
Bị đơn ông H vắng mặt nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn hợp lệ 02 lần nhưng đương sự vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Vũ H là đúng với quy định pháp luật.
Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền:
Xác định quan hệ pháp luật: Ông T khởi kiện ông H bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Bị đơn ông Nguyễn Vũ H có địa chỉ cư trú tại ấp Tân Ánh, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[1] Xét yêu cầu khởi kiện của ông T đối với ông H: Ông T yêu cầu ông H bồi thường thiệt hại với số tiền là 46.040.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).
Xét thấy, ông T cho rằng bị ông H đánh gây thương tích phần mền vào lúc 18 giờ ngày 06/8/2020 nên ngày 07/8/2020 phải nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Cái Nước đến ngày 13/8/2020 thì xuất viện. Căn cứ vào bảng tóm tắc bệnh án của ông T và giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện đa khoa huyện Cái Nước ngày 10/12/2020 thể hiện: Tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt, tim đều, phổi trong, bụng mềm; Đầu gối (P): Đau; Cẳng chân (T): Có vết trầy sướt, kích thước khoảng 1x2cm; Xquang: Dị vật cản quang mặt ngoài gối (P); Các cơ quan khác: Chưa phát hiện bệnh lý. Tình trạng người bệnh lúc ra viện: Bệnh ổn, cho xuất viện, uống thuốc theo toa. Chi phí điều trị theo bảng kê chi phí điều trị nội trú ngày 13/8/2020 với số tiền 1.245.213 đồng. Trong đó, bảo hiểm y tế thanh toán 996.170 đồng, người bệnh thanh toán 249.043 đồng.
Tại biên bản hòa giải thỏa thuận ngày 17/8/2020 giữa ông T và ông H tại Công an xã Phú Hưng, huyện Cái Nước thì ông T yêu cầu ông H phải bồi thường chi phí điều trị, chi phí đi lại với số tiền 3.050.000 đồng, ông H không đồng ý mà đồng ý bồi thường cho ông T với số tiền 1.500.000 đồng và ông T thống nhất bồi thường 1.500.000 đồng và đồng ý cho ông H 02 tháng sẽ bồi thường số tiền này. Đồng thời, ông T và ông H đều bị Công an xã Phú Hưng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người 750.000 đồng, do chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, việc ông T và ông H có xảy ra cự cải và đánh nhau vào ngày 06/8/2020 là thực tế có xảy ra và hậu quả là ông T phải nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Cái Nước từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 thì xuất viện. Sau khi sự việc xảy ra cho đến nay phía ông H vẫn không bồi thường cho ông T nên ông T khởi kiện yêu cầu ông H bồi thường với số tiền là 46.040.000 đồng. Do thương tích của ông T là do ông H gây ra, nên ông H phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thực tế cho ông T là đúng quy định của pháp luật tại các Điều 584, Điều 585, Điều 590 Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, đối với các khoản yêu cầu bồi thường của ông T, Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản có toa vé và chi phí hợp lý, cụ thể như sau:
1. Tiền viện phí từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày = 250.000 đồng.
2. Tiền ăn của người bệnh và người nuôi bệnh ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 100.000 đồng x 02 người = 1.400.000 đồng.
3. Tiền không đi nuôi gà mướn từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 200.000 đồng = 1.400.000 đồng.
4. Tiền công người nuôi bệnh từ ngày 07/8/2020 đến ngày 13/8/2020 là 07 ngày x 200.000 đồng = 1.400.000 đồng.
5. Tiền xe taxi đi từ ấp Nhà Phấn, xã Phú Hưng đến Bệnh viện Cái Nước ngày 07/8/2020 và về ngày 13/8/2020 là 02 lượt = 500.000 đồng.
6. Tiền xe ôm đi từ nhà đến Bệnh viện Cái Nước 01 lần vào ngày 24/8/2020 = 100.000 đồng.
7. Tiền tổn thất tinh thần là 01 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 1.490.000 đồng.
Tổng số tiền được chấp nhận là 6.540.000 đồng (Sáu triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng), số tiền không được chấp nhận là 39.500.000 đồng (Ba mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày ông T có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp ông H chậm thanh toán tiền thì hàng tháng ông H còn phải chịu thêm khoản lãi chậm thanh toán trên số tiền nợ theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thanh toán tại thời điểm thi hành án.
[2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Do yêu cầu khởi kiện của ông T được chấp nhận nên ông Hải phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% trên số tiền 6.540.000 đồng là 327.000 đồng (Ba trăm hai mươi bảy nghìn đồng).
Ông T không phải chịu án phí, ông T được miễn dự nộp tạm ứng án phí.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 147, 264, 266, 267, 271 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 584, Điều 585, Điều 590 của Bộ luật Dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Châu Minh T về việc khởi kiện ông Nguyễn Vũ H yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Buộc ông Nguyễn Vũ H có nghĩa vụ bồi thường cho ông Châu Minh T với số tiền là 6.540.000 đồng (Sáu triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng), số tiền không được chấp nhận là 39.500.000 đồng (Ba mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày ông T có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp ông H chậm thanh toán tiền thì hàng tháng ông H còn phải chịu thêm khoản lãi chậm thanh toán trên số tiền nợ theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thanh toán tại thời điểm thi hành án.
2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% ông Nguyễn Vũ H phải chịu nộp là 327.000 đồng (Ba trăm hai mươi bảy nghìn đồng).
Ông Châu Minh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và ông T được miễn dự nộp tạm ứng án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Án xử sơ thẩm, đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 68/2023/DS-ST về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 68/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về