TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 68/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 67/2022/TLST-HNGD, ngày 22 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2022 và Quyết đinh hoãn phiên tòa số 94/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị K, sinh năm 1995;
Nơi ĐKHKTT: Ấp Y, xã N Y, huyện A B, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở hiện nay: Ấp X, xã T T, huyện A M, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Huỳnh Thiện T, sinh năm 1993;
Địa chỉ: Ấp Y, xã N Y, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.
(Chị K có mặt; anh T vắng mặt lần 02 không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Ngô Thị K trình bày như sau:
Chị K và anh T sống với nhau vào năm 2015, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N Y, huyện A B, tỉnh Kiên Giang ngày 15/02/2016.
Vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuân là do vợ chồng thường xuyên cự cãi, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến đời sống vợ chồng không hạnh phúc, chồng chơi bời lêu lỏng, không quan T vợ con, vợ chồng đã hàn gắn nhưng không được, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng ly thân từ năm 2019 đến nay.
Về quan hệ hôn nhân: Chị K yêu cầu ly hôn với anh T.
Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Ngô Ngọc N, sinh ngày 16/9/2016 chị K đồng ý giao cháu N cho anh T nuôi dưỡng và chị K không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không trình bày và yêu cầu gì thêm.
Bị đơn anh Huỳnh Thiện T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa đồng thời không gửi văn bản trình bày ý kiến.
Theo kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Về quan hệ hôn nhân chị K và anh T có mâu thuẫn là đời sống chung vợ chồng thường xuyên cự cãi, bất hòa, vợ chồng đã sống ly thân với nhau một thời gian dài. Vợ chồng có 01 người con chung tên Huỳnh Ngô Ngọc N, sinh ngày 16/9/2016 hiện đang sống với anh T có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường.
Tại phiên tòa hôm nay: Chị K giữ nguyên ý kiến tại phiên Tòa hôm nay.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đảm bảo đúng theo quy định. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, xử cho chị K được ly hôn với anh T; Về con chung: Có 01 người con chung Huỳnh Ngô Ngọc N, sinh ngày 16/9/2016, giao cháu N cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chị K không phải cấp dưỡng nuôi con.Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị K không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn anh T đã được Tòa án triệu tập và tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất tiến hành xét xử vắng bị đơn.
[3] Về nội dung vụ án: Chị K yêu cầu được ly hôn với anh T và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật của vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Xét yêu cầu ly hôn của chị K, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị K và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đã thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 15/02/2016, nên hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do, đồng thời không gửi văn bản nêu ý kiến trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị K, không thể hiện hiện ý chí hàn gắn hôn nhân, vợ chồng đã tự ly thân từ cuối năm 2019 đến nay, không còn quan T chăm lo, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa anh, chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử thống nhất cho chị K được ly hôn với anh T.
Về con chung: Chị K xác định vợ chồng có 01 người con chung tên Huỳnh Ngô Ngọc N, sinh ngày 16/9/2016, chị K đồng ý giao cháu N cho anh T nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Huỳnh Ngô Ngọc N cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Chị K không phải cấp dưỡng nuôi con, do anh T không có yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị K xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Chị K có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị K được ly hôn với anh Huỳnh Thiện T.
2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Ngô Ngọc N, sinh ngày 16/9/2016 cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Chị K không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị K không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai đươc ngăn cản, tuy nhiên chị K không được lạm dụng quyền thăm nom con. Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị K xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Ngô Thị K có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0004745 ngày 22 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Ngô Thị K đã nộp xong án phí.
5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, chị K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 68/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 68/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về