Bản án 68/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2020/TLHS- ST, ngày 29/6/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lâm Văn T, sinh năm 1983, tại thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. HKTT; thôn Thai Thèn Bạ, xã Phúc Thuận, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Nghề ngH: Lao động tự do – Trình độ văn hoá lớp 6/12.

Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Lâm Minh L (chết) Con bà: Trương Thị P, sinh năm 1943 Vợ: Lại Thị M, sinh năm 1984.

Con: có 02 con lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2003. Tiền án; Tiền sự: không.

Nhân thân: Năm 2017 bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 23/QĐ-TA ngày 24/8/2017 của TAND thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 30/8/2018 chấp hành xong.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2020 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh ( có mặt tại phiên tòa ).

Ngưi bào chữa cho bị cáo là bà Đặng Thị H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh ( có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản Cáo trạng số 68/CT-VKSYP ngày 29/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong truy tố hành vi phạm tội của bị cáo:

Tối ngày 16/3/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo T dùng điện thoại di động nhãn hiệu Massel, izi 120 màu xanh trắng lắp sim số 0359456982 gọi vào số điện thoại 0392528627 của một người thanh niên làm nghề lái xe ôm bị cáo T mới quen để nhờ người này mua ma túy cho T để bị cáo T sử dụng. Người thanh niên này đồng ý mua cho bị cáo T 100.000đ tiền ma túy Heroine, bị cáo T trả công cho người này 200.000đ. Sau khi thống nhất giá ma túy và tiền công mua là 300.000đ T hẹn gặp người này ở đình làng thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh để đưa tiền và mua ma túy cho nhau. Sau bị cáo T thuê xe taxi của anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1983 trú tại thôn Gia Lương, xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là lái xe của Công ty taxi 123, chở bị cáo T từ huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đến đình làng thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn để mua ma túy (khi đi bị cáo T không nói cho anh H biết mục đích tới thôn Mẫn Xá để bị cáo T mua ma túy về sử dụng). Khi đến đình làng thôn Mẫn Xá, bị cáo T gọi điện thoại cho người thanh niên mà lúc trước bị cáo T đã gọi đến, T xuống xe taxi lại gần người thanh niên và đưa cho anh ta 300.000đ. Người thanh niên đưa cho bị cáo T 01 gói nhỏ ma túy được bọc bằng giấy mặt ngoài màu đỏ, mặt bên trong màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. Bị cáo T biết đây là ma túy Heroine nên cầm ở lòng bàn tay phải. Khi bị cáo T quay trở lại nơi anh H đỗ xe thì bị lực lượng Công an xã Văn Môn, kiểm tra bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu đỏ, mặt bên trong màu trắng chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, model izi 120 màu xanh trắng đã qua sử dụng, số imei 1: 353872084853717, số imei 2: 353872084853725 và số tiền 620.000đ của bị cáo T.

Ti bản kết luận giám định số 237/KLGĐ-PC09 ngày 19/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy mặt ngoài màu đỏ, mặt trong màu trắng có khối lượng là 0,1463 gam; là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Vi hành vi trên Cáo trạng của VKSND huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo Lâm Văn T với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1, Điều 249 BLHS, có mức hình phạt từ một năm đến năm năm.

Ti phiên tòa bị cáo khai nhận: Toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người đúng tội và đúng pháp luật không có oan sai gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội. Bản thân bị cáo không có nghề ngH và thu nhập gì ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình. Khi bị bắt giữ bị cáo bị Cơ quan Công an huyện Yên Phong thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động, chiếc điện trên bị cáo mua vào năm 2019 với giá 200.000đ, nay giá trị sử dụng không đáng kể bị cáo không có ý kiến gì, còn số tiền 620.000đ là tiền do bị cáo tự lao động mà có không liên quan gì đến hành vi phạm tội, bị cáo xin lại để sử dụng.

Cũng tại phiên tòa bà Hương trình bày: Về hành vi phạm tội của bị cáo T tại phiên tòa bị cáo khai nhận rõ về hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng của VKS truy tố bị cáo ra trước Tòa để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người đúng tội bà không có ý kiến gì thêm. Bà Hương chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như bản thân bị cáo là người dân tộc nhận thức và hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, bị bạn bè lôi kéo, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần đầu bị đưa ra xét xử, do vậy bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti phiên tòa đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố đã phân tích đánh giá chứng cứ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo; giữ nguyên bản Cáo trạng số 68/CT- VKSYP ngày 29/6/2020 của VKSND huyện Yên Phong đã truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lâm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 BLHS. Xử phạt T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/3/2020.

Min hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín, mép dán mặt sau có dấu đỏ và có chữ ký của cán bộ Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh. Bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định kèm theo kết luận giám đính số 237 ngày 19/3/2020; 01 phong bị thư bên trong có 01 que thử nước tiểu của Lâm Văn T được niêm phong dán kín, mép dán có chữ ký của Lâm Văn T.

Tch thu xung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, model izi 120 màu xanh trắng đã qua sử dụng.

Trả lại bị cáo Lâm Văn T 620.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 30 phút ngày 16/3/2020, tại đình làng thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Công an xã Văn Môn, huyện Yên Phong bắt quả tang bị cáo Lâm Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1463 gam Heroine để sử dụng cho bản thân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ ma tuý là một tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, cũng từ tệ nạn ma tuý mà còn làm phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Với những chứng cứ và hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận khẳng định bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS. Hành vi đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục chung và phòng ngừa riêng đối với bị cáo.

Xét tính chất mức độ thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng bởi lẽ ma tuý là một tệ nạn xã hội đang được lên án và loại bỏ trong đó bị cáo không lấy đó là bày học để từ bỏ mà còn lao vào con đường nghiện ngập, gây hại cho sức khoẻ của bị cáo cũng như ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình.

Xét về nhân thân bị cáo thấy: bị cáo là người dân tộc, con em nhân dân lao động, chưa có tiền án tiền sự; xong vào năm 2017 bị cáo đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội. Do vậy cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được 01 tình tiết giảm được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo là người dân tộc, nên bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 vBLHS.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ xung là phạt bị cáo một khoản tiền để xung công quỹ Nhà Nước. Xong trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã xác minh về điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo là sống phụ thuộc gia đình không có thu nhập gì ổn định, nên cần miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Về vật chứng: Quá trình bắt giữ Cơ quan Công an thu giữ: 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu đỏ, mặt bên trong màu trắng, chứa chất bột màu trắng là ma túy , 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, model izi 120 màu xanh trắng đã qua sử dụng, số imei 1: 353872084853717, số imei 2: 353872084853725 và số tiền 620.000đ của bị cáo T. Xét thấy số vật chứng trên là ma túy do nhà nước độc quyền quản lý cần tịch thu tiêu hủy, chiếc điện thoại bị cáo T dùng vào việc liên lạc để mua ma túy, giá trị sử dụng không còn cần tịch thu tiêu hủy. Riêng số tiền bị cáo T khai là của bị cáo do bị cáo tự lao động mà có không liên quan gì đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo xong cần giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Liên quan trong vụ án này còn có: Đối với anh Nguyễn Đình H là lái xe taxi chở bị cáo T đi từ huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đến đình làng thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh để bị cáo T mua ma túy. Anh H không biết, bị cáo T cũng không nói cho anh H biết mục đích của bị cáo T đến để mua ma túy sử dụng, Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh không xem xét xử lý anh H là phù hợp.

Đối với người thanh niên lái xe ôm mua ma túy cho bị cáo T. bị cáo T khai nhận không biết tên tuổi, địa chỉ của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã tiến hành xác minh số điện thoại 0392528627 xác định chủ thuê bao là chị Đỗ Thị Bảy, sinh năm 1999 trú tại xã Danh Thắng, huyện H Hòa, tỉnh Bắc Giang. Có chứng minh thư nhân dân số 000090855587 do Công an tỉnh Bắc Giang cấp ngày 11/02/2014. Quá trình điều tra xác định tại xã Danh Thắng, huyện H Hòa, tỉnh Bắc Giang không có ai tên là Đỗ Thị Bảy, sinh năm 1999 và Công an tỉnh Bắc Giang không cấp cho công dân nào trên địa bàn tỉnh số chứng minh nhân dân nêu trên. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không có căn cứ để điều tra người thanh niên đã mua ma túy cho bị cáo T, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Việc truy tố và mức án do Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo cần được chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lâm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 BLHS Xử phạt: Lâm Văn T 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/3/2020.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo Lâm Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư niêm phong dán kín, mép dán mặt sau có dấu đỏ và có chữ ký của cán bộ phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh. Bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám đính kèm theo KLGĐ số 237 ngày 19/3/2020; 01 phong bì thư bên trong có 01 que thử nước tiểu của Lâm Văn T được niêm phong dán kín, mép dán có chữ ký của bị cáo Lâm Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, model izi 120 màu xanh trắng đã qua sử dụng, số imei 1 353872084853717, số iemei 2: 353872084853725.

Trả lại bị cáo Lâm Văn T số tiền 620.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Hiện các vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong quản lý.

Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lâm Văn T phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;