Bản án 68/2019/HS-ST ngày 29/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 29/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 69/2019/TLST-HS ngày 15/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 18/11/2019 đối với bị cáo:

Sùng A P; Sinh năm 1991 tại huyện T - Điện Biên; Nơi cư trú: Bản K 2, xã K, huyện MN, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Sùng A S, sinh năm 1965 và con bà: Cháng Thị S, sinh năm 1970; Vợ là: Thào Thị M sinh năm: 1992 và có 03 con.

Tin sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2019 cho tới nay, có mặt.

Ngưi bào chữa: Ông Bùi Đình M – Là Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên được trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Điện Biên cử bào chữa cho bị cáo Sùng A P.

Đa chỉ: Số 29, tổ dân phố 5, phường L, TP Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 00 phút, ngày 07/7/2019, Sùng A P đi đi sang nhà Hạng A C ở cùng bản K 2, xã K, huyện MN ăn cơm. Trong lúc ăn cơm C rủ P đi ra xã Phìn Hồ, huyện NP để thăm người thân của C, P đồng ý. Sau đó P về nhà lấy một bộ quần áo và số tiền 1.000.000 đồng rồi quay lại nhà C. C lấy xe máy của gia đình chở P đi theo quốc lộ 4H đến đoạn km45 xã Phìn Hồ, huyện NP, C nói với P đường vào nhà người thân là đường đất, trời đã tối sợ không đi được. P nghe C nói vậy P nói với C, rủ C đi đến nhà người thân của P ở bản Nậm Đích, xã Chà Nưa, huyện NP. Khi P và C đi đến đoạn đường sạt lở thuộc bản Đề Pua, xã Phìn Hồ thì gặp một người đàn ông đi xe máy ngược chiều. Khi gặp người đàn ông đó hỏi P là đi đâu đấy, P trả lời là đi thăm người thân. Người đó hỏi tiếp có mua ma túy về chơi không.C và P trả lời không có tiền mua. Người đó nói, có bao nhiêu thì mua bấy nhiêu. P trả lời là có 1.000.000 đồng. C cũng nói là có 1.000.000 đồng. Người đàn ông đó đồng ý bán ma túy cho P và C. Người đàn ông đó cầm lấy tiền của P và C đi bộ một đoạn khoảng 05 phút sau quay lại và đưa cho C 01 gói ma túy được gói bằng giấy ni lông màu trắng và nói bên trong có cả thuốc trắng và viên hồng, hai người góp tiền bằng nhau thì mang về tự chia nhau. P và C đồng ý. Sau khi trao đổi mua bán xong, người đàn ông đó xe đi về phía xã Phìn Hồ, huyện NP, còn đi đâu thì P và C không biết. C đưa gói ma túy cho P cầm trên tay còn C điều khiển xe máy chở P về. Khi tới bản Mạy Hốc, xã Phìn Hồ, huyện NP thì gặp tổ công tác Công an huyện NP yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính, thấy tổ công tác P sợ quá nên vứt gói ma túy của P và C xuống đất nhưng bị tổ công tác phát hiện yêu cầu P nhặt lên để giao nộp. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng vụ án.

Ngày 09/7/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Sùng A P và Hạng A C gồm 12,71 gam nghi là Heroine và 0,74 gam nghi là Methamphetamine.

Bản kết luận giám định số: 751/GĐ-PC09, ngày 11/7/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Sùng A P và Hạng A C gửi giám định là chất ma túy. Loại Heroine. Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Sùng A P và Hạng A C gửi giám định là chất ma túy. Loại Methamphetamine

Bản cáo trạng số: 69/CT-VKSNP ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị can Sùng A P về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Sùng A P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NP giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bị cáo Sùng A P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng A P mức án từ 07 năm đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy của bị cáo (sau khi trừ mẫu gửi giám định).

Đề nghị miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Ông Bùi Đình M là người bào chữa cho bị cáo Sùng A P cho rằng về tội danh ông không có ý kiến gì. Bị cáo Sùng A P sinh ra và lớn lên tại vùng sâu vùng xa, thực hiện hành vi phạm tội một phần do nhận thức pháp luật còn hạn chế; bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Đề nghị HĐXX căn cứ vào điểm n khoản 2 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38/BLHS xử phạt bị cáo Sùng A P mức thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Đồng thời xem xét hoàn cảnh gia đình miễn áp dụng hình phạt bổ sung và án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A P.

Tại phiên tòa, bị cáo Sùng A P thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, không bổ sung gì bản bào chữa của Luật sư; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 23 giờ 20 phút ngày 07/7/2019, Sùng A P đã bị tổ công tác Công an huyện NP bắt quả tang tại khu vực bản Mạy Hốc, xã Phìn Hồ, huyện NP, thu giữ thu giữ 04 gói Heroine và 01 gói Methamphetamine với mục đích để sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 09/7/2019; Kết luận giám định số 751/GĐ-PC09, ngày 11/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên. Vì vậy HĐXX kết luận bị cáo Sùng A P đã có hành vi phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý đặc biệt các chất ma tuý của Nhà nước và gây ảnh hưởng xấu an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo Sùng A P là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy tàng trữ, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo Sùng A P đã đi ngược lại với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận Cyển trái phép chất ma tuý.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Sùng A P từ nhỏ không được đi học, do không chịu rèn luyện bản thân và hiểu biết pháp luật hạn chế nên bị cáo đã nghiện chất ma túy và có hành vi phạm tội trong vụ án này.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Sùng A P chưa có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giữ vững kỷ cương của pháp luật góp phần đẩy lùi tội phạm ma tuý và nhằm răn đe, phòng ngừa Cng trong nhân dân.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo Sùng A P không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[6] Xét đề nghị và luận tội của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của vị luật sư đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự xử phạt cho bị cáo Sùng A P mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; Cần được xem xét để áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249/BLHS, xét thấy bị cáo Sùng A P có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên HĐXX không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Sùng A P khai nhận đã mua ma túy của 01 người đàn ông không biết tên tuổi và địa chỉ ở đâu cùng với Hạng A C tại khu vực bản Đề Pua xã Phìn Hồ, huyện NP. Đối với Hạng A C bị bắt quả tang cùng Sùng A P, quá trình dẫn giải từ Ủy ban nhân dân xã Phìn Hồ về trụ sở Công an huyện NP, C đã treo cổ chết trên đường về nên Cơ quan cảnh sát điều tra không khởi tố bị can đối với Hạng A C. Còn người đàn ông đã bán ma túy cho P và C, do không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở để xác minh và xử lý đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo P. Vì vậy bị cáo Sùng A P phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[10] Về vật chứng vụ án: gồm 12,02 gam Heroine và 0,55 gam Methamphetamine (Sau khi trừ mẫu gửi giám định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. Cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đi với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại WAVE S màu sơn đen – bạc, biển kiểm soát 27S1- 054.38 Cơ quan điều tra đã làm rõ chủ sở hữu là Thào Thị Pài và đã ra quyết định xử lý và trả lại chiếc xe máy cho chị Pài.

[11] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 và khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: HĐXX xét thấy gia đình bị cáo Sùng A P là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Sùng A P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

[2] Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38/BLHS: Xử phạt bị cáo Sùng A P 07 (Bảy) năm tù, kể từ ngày bắt: 07/7/2019.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS; Tuyên tịch thu tiêu hủy 12,02 gam Heroine và 0,55 gam Methamphetamine (Sau khi trừ mẫu gửi giám định) và toàn bộ phần giấy ni lông, phong bì niêm phong cũ, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện NP.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016: Bị cáo Sùng A P được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 29/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;