Bản án 68/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 24/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 72/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Đình G, sinh năm 1992 tại huyện G, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn H, xã T (nay là xã Y), huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình V (đã chết) và con bà Bùi Thị L; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại bản án số 44/HSST ngày 14/6/2007 của TAND tỉnh Hải Dương xử phạt 12 năm tù về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2017. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/9/2019 đến nay (hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Hải Dương). Có mặt.

Ni chứng kiến: Anh Vũ Công H, sinh năm 1976 Anh Phạm Văn H, sinh năm 1986.

Đu trú tại: Thôn A, xã D, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Ni làm chứng: Anh Đặng Trần H, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn H, xã T (nay là xã Y), huyện G, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Đình G là người nghiện ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 30/9/2019 G đi xe khách từ xã T, huyện G đến TP T, tỉnh Thái Nguyên mục đích mua ma tuý để sử dụng. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày khi đi đến TP , G đi bộ ra khu vực đường tàu gặp mua của người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) ma túy tổng hợp với giá 1.500.000 đ. Sau khi mua được ma túy, G cất giấu trong người rồi đi xe khách về nhà khi về đến thị trấn G thì gặp Đặng Trần H là bạn và rủ đi đến huyện T chơi, H đồng ý. Cả hai bắt xe buýt đến quán cà phê karaoke H ở thôn A, xã D, huyện T đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày khi đến quán G lấy gói ma túy tổng hợp ra để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện T phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay phải đang cầm 01 túi nilon màu trắng kích thước (4x2,5) cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Ti Kết luận giám định số 347/KLGĐ - PC 09 ngày 03/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng ghi thu của Vũ Đình G gửi đến giám định có khối lượng 1,073 gam, là loại Methamphetamine.

Ti cáo trạng số 71/CT - VKSTK ngày 25/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố Vũ Đình G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Ti phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng, bị cáo xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, như đã nêu trên và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất.

Anh Vũ Công H và anh Phạm Văn H là người chứng kiến vắng mặt, có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ xác định: Khoảng 21 giờ 40 phút 30/9/2019 anh được chứng kiến việc lực lượng Công an thu giữ của G 01 túi ni lon kích thước (4x2,5) cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, G khai là ma túy đá mua để sử dụng cho bản thân.

Anh Đặng Trần H là người làm chứng vắng mặt, có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ xác định: Khi được G rủ đi chơi anh đồng ý không biết G mang ma tuý đi để sử dụng cho cá nhân.

VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Vũ Đình G phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 30/9/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy đối với 0,835 gam Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với chính lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 30/9/2019, tại quán cà phê karaoke ở thôn A, xã D, huyện T, tỉnh Hải Dương G có hành vi cất giấu ở tay phải của mình 1,073 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật song vẫn cố ý thực hiện tàng trữ trái phép 1,073 gam ma túy, là loại Methamphetamine để sử dụng, nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Như vậy, Quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là hoàn toàn đúng.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 44/HSST ngày 14-6-2007 TAND tỉnh Hải Dương xử phạt G 12 năm tù về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản” G chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2017. Tuy nhiên, khi phạm tội G 14 năm 6 tháng 10 ngày; ngày 30/9/2019 G phạm tội theo Điều 107 của BLHS G đã được xoá án tích đối với bản án trên. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[6] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân than và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, HĐXX cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo một thời gian thì mới có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và đấu tranh phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bị nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: 0,835 gam Methamphetamine (do cơ quan giám định hoàn lại) là vật nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu cho tiêu huỷ, là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[9] Trong vụ án này, đối tượng bán ma tuý cho bị cáo, Cơ quan CSĐT không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đình G phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Vũ Đình G 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 30/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Tịch thu tiêu hủy đối với 0,835 gam Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 04/12/2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử buộc bị cáo Vũ Đình G phải chịu 200.000 đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;