Bản án 68/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 68/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 252/2019/TLST - HNGĐ, ngày 10 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2019. Giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Thái Thị Cẩm T, sinh năm: 1986; địa chỉ cư trú: Ấp Ngã Năm, xã Ngọc Thành, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Lê Văn Nhsinh năm: 1987; địa chỉ cư trú: Ấp Ngã Năm, xã Ngọc Thành, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Thái Thị Cẩm T trình bày:

Chị và anh Lê Văn Nhdo mai mối mới quen biết nhau, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2010. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Thành, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Sau khi cưới chị và anh Nh chung sống không có hạnh phúc. Nguyên nhân là do anh Nh bản tính gia trưởng, khó khăn và thường xuyên đánh đập, hành hạ chị, anh Nh sống vô trách nhiệm với gia đình. Chị và anh Nh đã ly thân từ tháng 6/2019 cho đến nay Trong quá trình chung chị và anh Nh không có con chung, nhưng anh, chị có nhận cháu Lê Thái Quốc Nhật, sinh ngày: 12/10/2013 làm con nuôi. Hiện nay cháu Nhật đang chung sống với anh Nhanh, do anh Nh nuôi dưỡng.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nay chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nhanh.

Về con chung: Tại phiên tòa, chị T đồng ý giao con Lê Thái Quốc Nhật, sinh ngày: 12/10/2013 cho anh Nh tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh Lê Văn Nh trình bày: Anh Nh xác định lời trình bày của chị T về hôn nhân, con chung, tài sản và nợ chung là đúng. Nhưng về mâu thuẫn vợ chồng là không đúng, vợ chồng chung sống không có mâu thuẫn gì lớn dẫn đến vợ chồng phải ly hôn.

Nay chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn thì anh Nh không đồng ý ly hôn. Anh Nh còn thương vợ con và xin được đoàn tụ về chung sống với chị T để chăm lo cho con.

Nếu chị T cương quyết xin ly hôn, anh Nh yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Về con chung: Anh Nh yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con Lê Thái Quốc Nhật, sinh ngày: 12/10/2013, không yêu cầu chị Tphải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nh nên đây là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – xin ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Nh là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về nội dung:

- Xét về hôn nhân: Chị T và anh Nh chung sống với nhau vào năm 2010, có tổ chức lệ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ngọc Thành, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 116 vào ngày 11/12/2012. Do vậy việc kết hôn của chị T và anh Nh đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Do đó khi có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết..

Xét về mâu thuẫn giữa chị T và anh Nhanh, lúc đầu chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà các cặp vợ chồng thường mắc phải, Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng thấy rằng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong gia đình mà anh, chị không tìm hiểu nguyên nhân từ đâu để vợ chồng cùng nhau tìm cách dàn xếp, khắc phục, tháo gỡ những mâu thuẫn, để cùng nhau làm ăn chăm lo tương lai cho con của anh, chị sau này mới phải. Nhưng ở đây anh, chị đã không làm được điều đó mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng cho đến nay, mà đẫn đến chị T khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Nhanh. Từ khi thụ lý vụ kiện Tòa án tiến hành mời hai bên hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay HĐXX động viên anh, chị bỏ qua những mâu thuẫn nhỏ để tiếp tục đoàn tụ chung sống với nhau, anh Nh không đồng ý ly hôn và xin được đoàn tụ về chung sống với chị T nhưng chị T cương quyết xin ly hôn vì chị cho rằng anh Nh bản tính gia trưởng, khó khăn, không tôn trọng chị và sống thiếu trách nhiệm với gia đình.

Nên HĐXX xét thấy quá trình chung sống giữa anh, chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài mà không thể tự hòa giải với nhau, đồng thời anh, chị có thời gian khắc phục mẫu thuẫn, nhưng không có kết quả. Nay chị T cương quyết xin ly hôn chứ không đồng ý chung sống với anh Nh nữa. Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Nh đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Do đó, chị T yêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.

- Về con chung: Chị T và anh Nh xác định anh, chị có một con chung Lê Thái Quốc Nhật, sinh ngày: 12/10/2013, hiện con do anh Nh nuôi dưỡng. Tại phiên Tòa chị T và anh Nh thống nhất thỏa thuận với nhau là chị T đồng ý giao con cho anh Nh tiếp tục nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hiện nay dưới sự chăm sóc, giáo dục của anh Nh cháu Nhật đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường. Anh Nh cũng có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận của anh, chị là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được Tòa án ghi nhận. Chị T có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản và nợ chung: Chị T và anh Nh xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001299 ngày 10/6/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Thái Thị Cẩm T được ly hôn với anh Lê Văn Nhanh.

2. Về nuôi con: Giao con Lê Thái Quốc Nhật, sinh ngày: 12/10/2013 cho anh Lê Văn Nh tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (Trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật).

Chị Thái Thị Cẩm T có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nh không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

3. Về tài sản và nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Tphải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001299 ngày 10/6/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 30/8/2019.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:68/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;