TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 674/2018/DS-ST NGÀY 25/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN GIỮA NGÂN HÀNG S VÀ BÀ H
Trong ngày 25/12/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 347/2017/TLST-DS ngày 08/12/2017 về việc: “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 257/2018/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 6 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 143/2018/QĐST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2018; Thông báo về việc không mở phiên tòa số 05/2018/TB-TA ngày 23/7/2018 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 589/2018/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (Ngân hàng S)
Trụ sở: Lầu 8, 266-268 đường N, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Trường T, sinh năm 1994 – Chức vụ: Nhân viên Ngân hàng TMCP S (theo Giấy ủy quyền số 079/2018/UQ-TTT ngày 02/01/2018).
Ông Phạm Trường T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 20/7/2018.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thụy Thanh H, sinh năm 1984 (vắng mặt)
Địa chỉ: 78K đường L, phường M, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, phía nguyên đơn Ngân hàng TMCP S (tên gọi tắt là Ngân hàng S) do ông Phạm Trường T đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 08/4/2015, bà Nguyễn Thụy Thanh H có ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng đề nghị Ngân hàng S cấp tín dụng hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng. Căn cứ đề nghị của bà H, ngày 08/4/2015 Ngân hàng S đã đồng ý cấp tín dụng cho bà H 01 Thẻ tín dụng quốc tế Ngân hàng S MasterCard và 01 Thẻ tín dụng nội địa Family với hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng, thời hạn sử dụng thẻ: 03 năm kể từ ngày phát hành thẻ, lãi suất hai bên thỏa thuận đối với Thẻ tín dụng quốc tế Ngân hàng S MasterCard là 2,15%/tháng và Thẻ tín dụng nội địa Family là 2,5%/tháng, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn, mục đích vay: để tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình sử dụng thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 9.719.765 đồng nhưng chỉ thanh toán cho ngân hàng 923.140 đồng. Từ ngày 31/7/2015, bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vốn và lãi suất cho Ngân hàng S. Do đó, từ ngày 01/10/2015, Ngân hàng S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà H và chuyển toàn bộ số tiền còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 25/12/2018, bà Nguyễn Thụy Thanh H còn nợ Ngân hàng S tổng số tiền 26.165.832 đồng, trong đó: nợ gốc là 11.088.558 đồng, nợ lãi quá hạn là 15.077.274 đồng.
Do bị đơn đã trễ hạn thanh toán nên Ngân hàng TMCP S khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thụy Thanh H phải thanh toán ngay một lần khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền còn nợ là 26.165.832 đồng, trong đó: nợ gốc là 11.088.558 đồng, nợ lãi quá hạn là 15.077.274 đồng. Đồng thời, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Nguyên đơn Ngân hàng TMCP S chỉ cho cá nhân bà Nguyễn Thụy Thanh H vay tiền, không liên quan đến người khác, do đó nguyên đơn chỉ yêu cầu cá nhân bà H có trách nhiệm trả cho ngân hàng số tiền còn nợ nêu trên.
Phía bị đơn là bà Nguyễn Thụy Thanh H đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc nguyên đơn khởi kiện và tiến hành hòa giải nhưng bà H cố tình vắng mặt không có lý do cũng không có văn bản ý kiến phản hồi về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải, công khai chứng cứ được.
Tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S do ông Phạm Trường T đại diện theo ủy quyền có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đồng thời ông T nộp bản tự khai xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc bà Nguyễn Thụy Thanh H phải thanh toán ngay một lần khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền còn thiếu tính đến ngày 25/12/2018 là 26.165.832 đồng, trong đó: nợ gốc là 11.088.558 đồng, nợ lãi quá hạn là 15.077.274 đồng và tiền lãi tiếp tục phát sinh kể từ ngày 26/12/2018 cho đến khi bà H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ trên số nợ gốc theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/4/2015 giữa Ngân hàng TMCP S và bà Nguyễn Thụy Thanh H.
Bị đơn là bà Nguyễn Thụy Thanh H vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thụy Thanh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng theo quy định pháp luật. Qua kiểm sát hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, căn cứ vào các Điều 463, 468 và Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 về việc chấp hành pháp luật tố tụng và nội dung của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1]-Thẩm quyền loại việc: Ngân hàng TMCP S (Ngân hàng S) khởi kiện bà Nguyễn Thụy Thanh H yêu cầu thanh toán tiền vay theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/4/2015. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc tranh chấp dân sự: “Hợp đồng dân sự vay tài sản”.
[2]-Thẩm quyền theo lãnh thổ: Nguyên đơn Ngân hàng TMCP S có đơn khởi kiện bị đơn bà Nguyễn Thụy Thanh H có hộ khẩu thường trú tại số 78K đường L, phường M, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
[3]-Thời hiệu khởi kiện vụ án: Căn cứ vào thời điểm bà Nguyễn Thụy Thanh H ngừng thanh toán các khoản tiền theo thỏa thuận cho Ngân hàng TMCP S bắt đầu vào ngày 31/7/2015. Ngày 23/11/2017, Ngân hàng TMCP S có đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân Quận 6. Thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng dân sự được xác định là 03 năm kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm theo quy định tại Điều 429, 688 Bộ luật dân sự 2015 nên việc khởi kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện.
[4] Bị đơn bà Nguyễn Thụy Thanh H đã được Tòa án tống đạt, triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bà H vắng mặt không có lý do cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Như vậy, bà H đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Ngoài ra, bà Nguyễn Thụy Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do, không có người đại diện tham gia phiên tòa nên căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn.
Về nội dung:
[1]- Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/4/2015; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng TMCP S và bà Nguyễn Thụy Thanh H, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở xác định bà H được ngân hàng cấp Thẻ tín dụng quốc tế Ngân hàng S MasterCard và Thẻ tín dụng nội địa Family với hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng. Sau khi cấp thẻ, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 9.719.765 đồng nhưng chỉ thanh toán cho ngân hàng 923.140 đồng. Từ ngày 31/7/2015, bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vốn và lãi suất cho nguyên đơn Ngân hàng TMCP S dù nguyên đơn đã nhiều lần nhắc nhở. Những sự kiện này, phía bị đơn không phản đối và không chứng minh nên phải chịu hậu quả của việc không chứng minh và không phản đối này. Hội đồng xét xử xét thấy việc giao dịch giữa các bên là có thật và hợp pháp. Ngân hàng TMCP S khởi kiện buộc bà Nguyễn Thụy Thanh H phải thanh toán ngay một lần số tiền còn nợ tính đến ngày 25/12/2018 là 26.165.832 đồng, trong đó: nợ gốc là 11.088.558 đồng, nợ lãi quá hạn là 15.077.274 đồng khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 466, 468 Bộ luật dân sự 2015, điểm c khoản 4 Điều 13 và Điều 20 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động của tổ chức tín dụng nên có cơ sở chấp nhận.
[2]- Theo nội dung án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì “Đối với các khoản vay của tổ chức tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này…”
[3]- Trong vụ án này, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Yêu cầu tính lãi chậm thanh toán phát s inh sau khi xét xử của nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật, Án lệ số 08 ngày 17/10/2016 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Nguyễn Thụy Thanh H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
[1]- Bà Nguyễn Thụy Thanh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận.
[2]- Ngân hàng TMCP S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 149, các Điều 429, 463, 465, 466, 468 và Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm c khoản 4 Điều 13 và Điều 20 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 6, khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 và Án lệ số 08/2016 ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng TMCP S (Ngân hàng S).
1/ Buộc bà Nguyễn Thụy Thanh H phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền 26.165.832 đồng (hai mươi sáu triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn tám trăm ba mươi hai đồng), trong đó nợ gốc là 11.088.558 đồng, nợ lãi quá hạn là 15.077.274 đồng. Thời hạn thanh toán: Trả ngay một lần khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bà Nguyễn Thụy Thanh H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/4/2015 giữa Ngân hàng TMCP S và bà Nguyễn Thụy Thanh H cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
2/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thụy Thanh H phải chịu 1.308.291 đồng (một triệu ba trăm lẻ tám nghìn hai trăm chín mươi mốt đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 521.829 đồng (năm trăm hai mươi mốt nghìn tám trăm hai mươi chín đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0028493 ngày 08/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và bà Nguyễn Thụy Thanh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
4/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 674/2018/DS-ST ngày 25/12/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản giữa Ngân hàng S và bà H
Số hiệu: | 674/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về