Bản án 67/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 566/2019/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 10 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự;

Nguyên đơn: Bà P K N, sinh năm 1973 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: 67/28/6 Bờ Bao Tân Thắng, phường S, quận T, Thành phố H.

Bị đơn: Ông M R A, sinh năm 1959 (Vắng mặt).

Quốc tịch: Hoa Kỳ.

Địa chỉ: W Minnesota, St Chickasha OK 73018, Hoa Kỳ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 25/9/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà P K N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông M R A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 799, quyển số 03, ngày 06/3/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, năm 2006 đến 2015 ông M R A trở về Hoa Kỳ sinh sống và thường xuyên về Việt Nam thăm vợ con, từ năm 2016 đến 2018 ông M R A không về Việt Nam thăm lại vợ con, mãi đến tháng 01/2019 ông M R A trở lại Việt Nam thăm vợ con, và thời gian này bà biết được M R A đã có người phụ nữ khác, nên vợ chồng bà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cả hai không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống vợ chồng ngày một mâu thuẫn trầm trọng, không thể kéo dài và hàn gắn được. Nay ông Michael Ray Cole sinh sống và ở hẳn Hoa Kỳ, cũng từ đó bà và ông M R A không còn liên lạc với nhau. Nay bà xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông M R A.

Về con chung: Có một (01) con chung C D H, sinh ngày 27/10/2009. Ly hôn bà yêu cầu được trưc tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung C D H, sinh ngày 27/10/2009. Về cấp dưỡng nuôi con bà không yêu cầu ông M R A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông M R A, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Michael Ray Cole có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo hồ sơ ủy thác tư pháp số 951/TTTPDS-TA30 ngày 26/12/2019). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có văn bản đề nghị Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Đến ngày mở phiên tòa như đã định tại thông báo gửi đương sự, Tòa án không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự ở nước ngoài và bị đơn vắng mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Ngày 15/10/2020, Tòa án có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về kết quả thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho ông M R A (Công văn số 780/TATP-TGĐVNCTN) nhưng đến nay vẫn không nhận được kết quả.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn bà P K N, Hội đồng xét xử nhận thấy bà N và ông M R A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn hiện cư trú tại Hoa Kỳ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai, thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà P K N yêu cầu ly hôn ông M R A, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà N thì bà và ông M R A chung sống không hạnh phúc. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà Nga và ông M R A không có quá trình chung sống lâu dài, do xa cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà và ông M R A đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Nga yêu cầu ly hôn với ông M R A là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, và nghĩa vụ dân sự chung: Bà P K N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa không xét.

[5] Về con chung: Có một (01) con chung C D H, sinh ngày 27/10/2009; Ly hôn bà Nga yêu cầu được trưc tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

[6] Về mức cấp dưỡng nuôi con: Bà P K N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa không xét.

[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà P K N ly hôn với ông M R A, đồng thời chấp nhận yêu cầu của bà Nga: Giao trẻ C D H, sinh ngày 27/10/2009 cho bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà P K N phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83, điểm b Khoản 2 Điều 84, Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, khoản 3 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà P KN.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà P K N được ly hôn với ông Michael Ray Cole. Giấy chứng nhận kết hôn số 799, quyển số 03, ngày 06/3/2006 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp cho bà P KN được ly hôn với ông M R A không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Giao trẻ C D H, sinh ngày 27/10/2009 cho bà P K N được trưc tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

1.3. Về mức cấp dưỡng nuôi con: Bà P K N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà P K N phải chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà N đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0024649 ngày 04/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H. Bà N đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

3. Về quyền kháng cáo: Bà P K N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông M R A được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 67/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:67/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;