Bản án 67/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại Trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi, huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2020/TLT-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn L, sinh ngày 08 tháng 10 năm 1997 tại huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Phạm Tiến T và bà Trịnh Thị N; bị cáo chưa có vợ, con:

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 24 tháng 8 năm 2020 đến ngày 27 tháng 8 năm 2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình.

 (Anh T, anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 24 tháng 8 năm 2020, Phạm Văn L điều khiển xe máy điện từ nhà Lực tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình đến đê Quán Chuột, thuộc địa phận xã M, huyện M, tỉnh Nam Định gặp và mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 túi ma túy với giá 200.000 đồng rồi cất giấu trong túi quần đùi bên trái phía trước, mục đích sử dụng cho bản thân. Khi L dừng ở ven đường quốc lộ 10, thuộc địa phận thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác Công an huyện V yêu cầu kiểm tra và mời người dân chứng kiến. Tổ công tác kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại túi quần đùi bên trái phía trước L đang mặc 01 túi nilon màu trắng trong suốt, có khóa kẹp viền màu đỏ, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong túi nilon màu trắng trong suốt, bên trong có chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn L và dẫn giải L đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và tiến hành trưng cầu giám định. Ngoài ra Tổ công tác còn quản lý 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel dạng bàn phím, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng và 01 xe máy điện. Cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn L tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 323/KLGĐMT-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,2275 gam (Không phẩy hai nghìn hai trăm bảy mươi lăm gam). Methamphetamine STT: 323, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ” Bản cáo trạng số 70/CT-VKSVT ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình đã truy tố Phạm Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; xử phạt: Phạm Văn L mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 8 năm 2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản riêng và thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,1702 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định trong phong bì số 323/KLGĐMT-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đạng bàn phím, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V lập hồi 21 giờ 00 phút ngày 24 tháng 8 năm 2020; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình lập hồi 21 giờ 50 phút ngày 24 tháng 8 năm 2020; Bản kết luận giám định số 323/KLGĐMT-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng anh Trần Văn T, anh Nguyễn Như T.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại Quốc lộ 10, thuộc địa phận thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn L có hành vi cất giấu trái phép 01 túi nilon chứa ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2275 gam trong túi quần đùi bên trái phía trước, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của Phạm Văn L đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methaphetamine có khối lượng 0,2275 gam của bị cáo Phạm Văn L là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình. Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây, ma túy đá (Methamphetamine) còn là căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của con người như giết người hàng loạt, giết người cướp tài sản với những hành vi, thủ đoạn dã man, bất chấp pháp luật gây hoang mang trong dư luận xã hội, bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù bị cáo biết rõ tác hại của ma túy cũng như mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Phạm Văn L có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét thấy, bị cáo Phạm Văn L mua ma túy về sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo không có tài sản và không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định còn 0,1702 gam Methamphetamine niêm phong trong phong bì số 323/KLGĐ-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel dạng bàn phím, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:

[6.1] Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đê Quán Chuột, thuộc địa phận xã M, huyện M, tỉnh Nam Định, bị cáo khai không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

[6.2] Đối với chiếc xe máy điện quản lý của bị cáo, không đeo biển số, dán nhãn 133S. Quá trình điều tra xác định chiếc xe này là của bà Trịnh Thị N (mẹ đẻ bị cáo) mua lại nhưng chưa được đăng ký, việc mua bán không có giấy tờ. Cơ quan điều tra đã tra cứu dữ liệu xe tang vật nhưng chưa có kết quả nên tiếp tục quản lý, xác minh làm rõ để có căn cứ giải quyết sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Phạm Văn L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24 tháng 8 năm 2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,1702 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 323/KLGĐMT-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Tuyên trả cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel dạng bàn phím, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo biên bản giao nhận vật chứng và phiếu nhập kho vật chứng ghi ngày 12 tháng 10 năm 2020).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26 tháng 10 năm 2020).

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;