Bản án 67/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở TAND huyện Tân Yên, tỉnh Bắc G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2020/TLST-HS ngày 31/7/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Phạm Đức G, sinh năm 1974 Nơi cư trú: Thôn Kh, xã Ng, huyện TY, tỉnh Bắc G.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Họ và tên cha: Phạm Văn B (đã chết). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Nh- sinh năm 1944 hiện ở Thôn Kh, xã Ng, huyện TY, tỉnh Bắc G. Vợ: Lý Thị C - sinh năm 1989 hiện ở Thôn Kh, xã Ng, huyện TY, tỉnh Bắc G. Con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2016. Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Tại Bản án số 21/HSPT ngày 12/01/1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phạt Phạm Đức G 01 năm về tội “Cưỡng đoạt tài sản của công dân”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi 05 tháng 05 ngày đã tạm giam, án phí 50.000 đồng (Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên xác định không thấy có Bản án hay quyết định ủy thác thi hành Bản án số 21/HSPT ngày 12/01/1996).

+ Tại Bản án số 94/HSPT ngày 10/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc G xử phạt Phạm Đức G 30 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2006, bồi thường dân sự 7.000.000 đồng (chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 23/4/2008, xong phần án phí vào ngày 04/3/2009, Trách nhiệm dân sự chưa thi hành lý do người được thi hành án không có đơn yêu cầu thi hành án số tiền 7.000.000 đồng).

+ Tại Bản án số 50/2010/HS-ST ngày 29/7/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc G xử phạt Phạm Đức G 02 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/3/2010, án phí 200.000 và trả cho Thân Văn Hưng 100.000 đồng (chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/01/2012, chấp hành xong phần án phí vào ngày 16/11/2010, đến nay trách nhiệm dân sự chưa thi hành do anh Hưng không có đơn yêu cầu thi hành án đối với Phạm Đức G về số tiền 100.000 đồng).

- Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc G.(có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn H sinh năm 1978 (vắng mặt) Nơi cư trú: Khu, thị trấn B, huyện VY, tỉnh Bắc Giang.

- Chị Lò Thị Hương, sinh năm 2001 (vắng mặt) Nơi cư trú: Bản S, xã Ph, huyện Th, tỉnh Lai Châu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 16/4/2020, Phạm Đức G, sinh năm 1974, trú tại thôn Khánh Ninh, xã Ng Châu, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang điều khiển xe mô tô dream biển kiểm soát 98H7-6895 một mình từ nhà đi lên khu vực xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên thì G có gặp một người tên là Ng (là bạn bè quen biết xã hội từ trước, G không biết họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể của Ng), qua trao đổi nói chuyện với Ng thì G được biết Ng có ma túy bán nên G đã hỏi mua ma túy của Ng thì được Ng đồng ý. G đưa cho Ng số tiền 3.300.000 đồng (ba triệu ba trăm nghìn đồng) Ng cầm tiền và đưa lại cho G 02 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa viền màu đỏ, trong đó có 01 túi nilon bên trong đựng các viên nén hình tròn màu hồng đỏ và màu xanh là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến và 01 túi nilon bên trong đựng chất tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp dạng đá. Sau khi mua được ma túy của Ng, G để 02 túi nilon có chứa ma túy vào túi áo đang mặc và điều khiển xe mô tô về nhà. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, G bỏ các đoạn ống nhựa có sẵn trong phòng ngủ của G ra chia nhỏ số ma túy vừa mua được vào trong các ống nhựa hàn kín hai đầu lại và túi nilon để sử dụng dần, sau đó G cho các đoạn ống nhựa đựng ma túy vào trong vỏ hộp thuốc lá Thăng Long, G cất 02 túi nilon màu trắng và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long vào ngăn tủ gỗ dưới cùng ở phòng ngủ của G, còn 01 (một) túi nilon màu trắng có chứa ma túy G vẫn cầm ở tay để tiếp tục chia nhỏ thì lúc này có bạn của G là Nguyễn Văn H, sinh năm 1978 trú tại Khu, thị trấn B, huyện VY, tỉnh Bắc G và Lò Thị H, sinh năm 2001, trú tại Bản S, xã Ph, huyện Th, tỉnh Lai Châu đến nhà G chơi, đúng lúc này thì Tổ công tác thuộc phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an huyện Tân Yên đến bắt quả tang G đang có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do hoảng sợ G đã vứt gói ma túy đang cầm trên tay xuống nền nhà. Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bao gồm:

- 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa và viền màu đỏ. Bên trong đựng các viên nén hình tròn màu hồng đỏ và màu xanh nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến được thu giữ tại nền phòng ngủ của G.

- 02 (hai) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền đỏ, bên trong mỗi túi đều đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá,

được thu giữ tại ngăn dưới cùng tủ gỗ trong phòng ngủ của G.

- 01 (một) vỏ hộp thuốc lá Thăng Long bên trong đựng 13 (mười ba) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong đựng các chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá, 02 (hai) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong mỗi đoạn ống nhựa đựng 01 (một) viên nén hình trong màu hồng đỏ nghi là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến, thu giữ tại ngăn tủ gỗ dưới cùng phòng ngủ của G. 03 túi nilon và vỏ bao thuốc lá Thăng Long được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT”.

- 01 (một) ví da màu đen, trên mặt ví có ký hiệu “X” bên trong có 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 121795553 mang tên Phạm Đức G do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) đăng ký mô tô xe máy số 0041533 mang tên Nguyễn Văn Sơn do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) giấy phép lái xe mang số 240148695890 mang tên Phạm Đức G do Sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp, thu giữ trong túi quần của G.

Cùng ngày chị Lý Thị C, sinh năm 1989 là vợ của Phạm Đức G có giao nộp Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên 01 chiếc xe mô tô Honda Dream II, nhãn hiệu DAEHAN biển kiểm soát 98H7-6895.

Quá trình điều tra, Phạm Đức G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Tại kết luận giám định số 479/KL-KTHS Ngày 20/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được dán kín, niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ: 48 (bốn mươi tám) viên nén hình tròn màu hồng đỏ là ma túy, có khối lượng 4,943 gam, loại Methamphetamine; 02 (hai) viên nén hình tròn màu xanh không tìm thấy thành phần chất ma túy, có khối lượng 0,194 gam; Tinh thể màu trắng đựng trong 02 (hai) túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 0,385 gam, loại Methamphetamine.

- Trong 01 (một) vỏ hộp thuốc lá “Thăng Long”: Tinh thể màu trắng đựng trong 13 (mười ba) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, có tổng khối lượng 1,113 gam, loại Methamphetamine; 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, đựng trong 02 (hai) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, có khối lượng 0,196 gam, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 56/KSĐT ngày 29/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên đã truy tố Phạm Đức G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Tại phiên toà hôm nay, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Phạm Đức G phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Phạm Đức G từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020.

Về hình phạt bổ sung: áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là 5.000.000đồng.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo Phạm Đức G nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi mình là trái pháp luật và ăn năn, hối cải. Đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, Điều tra viên; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện huyện Tân Yên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ về thời gian, không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ có sở kết luận: Hồi 12 giờ 10 phút ngày 16/4/2020, tại gia đình nhà Phạm Đức G, sinh năm 1974 trú tại thôn Kh, xã Ng, huyện TY, tỉnh Bắc Giang; Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc G phối hợp với Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang bắt quả tang bắt quả tang Phạm Đức G đang có hành vi tàng trữ trái phép 6,637gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đủ tuổi, đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên có đủ cơ sở khẳng định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS. Do vậy, bản Cáo trạng truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trong tình hình xã hội hiện nay, tệ nạn ma tuý đang là một trong những vấn nạn của xã hội và ngày càng có diễn biến phức tạp, tinh vi hơn, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nhiều loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, suy thoái đạo đức xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là trái pháp luật và sự nguy hiểm của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử thấy cần xét xử nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có mẹ đẻ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo Phạm Đức G là người có nhân thân xấu mặc dù đã bị các cơ quan có thẩm quyền xét xử, xử phạt nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó là làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản gì giá trị, mức thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo pH chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo với xã hội trong một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.

[4] Về vật chứng: Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra về xử lý vật chứng là phù hợp. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”:

- Trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ: Mẫu viên nén màu hồng đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 4.685 gam; Mẫu viên nén mầu xanh không tìm thấy thành phần chất ma túy còn lại sau giám định 0.066 gam; Mẫu tinh thể màu trắng đựng trong 02 (hai) túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 0.332 gam.

- Trong 01 (một) vỏ hộp thuốc lá “Thăng Long”: Mẫu tinh thể màu trắng đựng trong 13 (mười ba) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 1.040 gam; Mẫu viên nén mầu hồng đỏ đựng trong 02 (hai) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám đinh 0.182 gam; Phong bì được niêm phong lại bằng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám đinh.

Đối với 01 chiếc xe Honda Dream II, nhãn hiệu DAEHAN, BKS: 98H7- 6895, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô này là tài sản hợp pháp của Phạm Đức G, ngày 16/4/2020 Phạm Đức G đã sử dụng chiếc xe mô tô này đi mua ma túy nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

Đối với 01 một ví da màu đen, trên mặt ví có ký hiệu “X” bên trong có 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 121795553 mang tên Phạm Đức G do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) đăng ký mô tô xe máy số 0041533 mang tên Nguyễn Văn Sơn do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) giấy phép lái xe mang số 240148695890 mang tên Phạm Đức G do Sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp là của Phạm Đức G là tài sản hợp pháp của bị cáo, bi cáo đề nghị xin lại nên cần trả lại cho bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông tên Ng bán ma túy cho G, G khai khoảng 40 tuổi ở địa phận bờ sông khu vực xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, Cơ quan điều tra đã tiến hành hành xác minh tại Công an xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên nhưng do có ít thông tin về người đàn ông này nên không xác định được người đàn ông này là ai. Do vậy, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên đã tách phần tài liệu liên quan đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với chị Lò Thị H và anh Nguyễn Văn H đến nhà Phạm Đức G chơi nhưng không biết G “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên chị H, anh H không vi phạm pháp luật.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo Phạm Đức G pH chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Đức G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Phạm Đức G 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/4/2020.

Không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Phạm Đức G.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”:

- Trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ: Mẫu viên nén màu hồng đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 4.685 gam; Mẫu viên nén mầu xanh không tìm thấy thành phần chất ma túy còn lại sau giám định 0.066 gam; Mẫu tinh thể màu trắng đựng trong 02 (hai) túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 0.332 gam.

- Trong 01 (một) vỏ hộp thuốc lá “Thăng Long”: Mẫu tinh thể màu trắng đựng trong 13 (mười ba) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định 1.040 gam; Mẫu viên nén mầu hồng đỏ đựng trong 02 (hai) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám đinh 0.182 gam; Phong bì được niêm phong lại bằng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám đinh.

- Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước 01 chiếc xe Honda Dream II, nhãn hiệu DAEHAN, BKS: 98H7- 6895, xe có số máy DA – H^008867(xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng).

- Trả lại cho Phạm Đức G 01 một ví da màu đen, trên mặt ví có ký hiệu “X” bên trong có 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 121795553 mang tên Phạm Đức G do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) đăng ký mô tô xe máy số 0041533 mang tên Nguyễn Văn Sơn do Công an tỉnh Bắc G cấp; 01 (một) giấy phép lái xe mang số 240148695890 mang tên Phạm Đức G do Sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo Phạm Đức G phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 khoản 1 Điều 336 BLTTHS:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;