TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2020/TLST-HS, ngày 09 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Thanh T (tên gọi khác: T Bành), sinh ngày: 02 tháng 10 năm 1988, tại: Sông C, Phú Yên; nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường Cam N, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị A; vợ, con: Chưa.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2020 đến nay.
Có mặt tại phiên tòa.
2/ Trần Đức P (tên gọi khác: C1), sinh ngày 21 tháng 7 năm 1999, tại: Cam Ranh, Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ dân phố Nghĩa Cam, phường Cam Ng, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 và bà Phạm Thị Diễm Th; vợ, con: Chưa.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Phạm Thị Diễm Th, sinh năm: 1971 Nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường Cam Ng, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.
Vắng mặt tại phiên tòa.
2/ Bà Đào Thị Ph, sinh năm: 1960 Nơi cư trú: Tổ dân phố Nghĩa Q, phường Cam Ng, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
3/ Bà Trương Thị N, sinh năm: 1982 Nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường Cam Ng, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.
Vắng mặt tại phiên tòa.
4/ Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1962 Nơi cư trú: Thôn Võ C, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1/ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1992 Vắng mặt tại phiên tòa.
2/ Anh Phạm Hồng A, sinh năm: 2000 Vắng mặt tại phiên tòa.
3/ Anh Lê Xuân Ph, sinh năm: 1991 Vắng mặt tại phiên tòa.
4/ Anh Nguyễn Tứ Ph1, sinh năm: 1992 Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 12/6/2019, tổ công tác Đội điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C đang tuần tra, kiểm soát tại khu vực đường Quốc lộ 1A thuộc tổ dân phố Mỹ Ca, phường Cam Ng, thành phố C thì phát hiện Trần Đức P và Lương Thị Ngọc Khánh có biểu hiện nghi vấn tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu xanh, biển kiểm soát 79C1 – 252.46 chạy từ đường bê – tông (bên hông quán cơm gà số 10) hướng ra Quốc lộ 1A, tổ công tác tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi quần bên phải của Trần Đức P có 01 (một) bịch ni lông màu trắng được hàn kín, bên trong có chưa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) (niêm phong ký hiệu mẫu A). Tổ công tác tiến hành thu giữ tang vật trên và đưa các đối tượng về Công an phường Cam Ng để làm việc. Trần Đức P khai nhận số tinh thể màu trắng đó trong bịch ni lông là ma túy mua của Nguyễn Thanh T (tên thường gọi là T Bành) với giá 500.000 đồng ở trước cửa phòng 6A, nhà trọ Magi thuộc tổ dân phố Mỹ Ca, phường Cam Ng, thành phố C để mang về sử dụng.
Tổ công tác tiếp tục kiểm tra nhà trọ Magi và P hiện tại phòng 6A có các đối tượng gồm Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn H (tên thường gọi là Nh) và Phạm Hồng A (tên thường gọi C A) có biểu hiện tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Tại thời điểm kiểm tra, tổ công tác P hiện tại vị trí Nguyễn Minh T ngồi có 01 (một) túi vải màu xanh và 01 (một) hộp giấy màu đen ghi dòng chữ Dior. Kiểm tra bên trong túi vải màu xanh, phát hiện có:
- 01 (một) hũ nhựa màu xanh lá cây (trên hủ có ghi dòng chữ XYLYTOL), bên trong có 01 (một) bịch ni lông (kích thước khoảng 3cm x 4,5cm), trong bịch ni lông có 03 (ba) bịch ni lông màu trắng được hàn kín (kích thước khoảng 1,5cm x 2cm) (niêm phong ký hiệu mẫu B, C, D); 01 bịch ni lông màu trắng được hàn kín (kích thước khoảng 1,5cm x 1,5cm) (niêm phong ký hiệu mẫu E) và 01 (một) bịch ni lông màu trắng được hàn kín, kích thước khoảng 2cm x 2cm (niêm phong ký hiệu mẫu F). Bên trong 05 bịch ni lông nói trên đều chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá.
- 01 (một) hũ nhựa màu xanh lam (trên hũ ghi dòng chữ XYLYTOL) bên trong có 01 (một) bịch ni lông có khóa mép (kích thước khoảng 3cm x 4cm) chứa 02 (hai) viên nén màu xanh và 01 (một) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (loại “thuốc lắc”); 01 (một) bịch ni lông có khóa mép (kích thước khoảng 3cm x 4,5cm) chứa 08 (tám) bịch ni lông màu trắng được hàn kín (kích thước khoảng 1,5cm x 1.5cm) bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá (niêm phong ký hiệu mẫu H, K, L, M, N, P, Q, S).
Tiến hành kiểm tra trong hộp giấy màu đen có dòng chữ Dior thì phát hiện có 01 (một) chai nhựa nhãn hiệu Đảnh Thạnh có nắp chai được đục hai lỗ, một lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh có một đầu hình cầu; 13 (mười ba) đoạn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) kéo inox; 01 (một) kéo có cán bằng nhựa; 01 (một) quẹt gas; 01 (một) bình gas mini màu đen hiệu Bluesky và 01 (một) đoạn ống thủy tinh có một đầu hình cầu.
Tổ công tác tiếp tục kiểm tra, phát hiện tại vị trí trên móc treo đồ có 01 (một) bị ni lông màu trắng (trên có ghi dòng chữ “Gia Huy”), bên trong bị ni lông có 01 (một) hũ nhựa màu xanh lá cây (trên hũ có ghi dòng chữ Doublemint) chứa 01 (một) bịch ni lông (kích thước khoảng 1,5cm x 0,5cm) (niêm phong ký hiệu mẫuT);
01(một) bịch ni lông (kích thước khoảng 1,7 cm x 2,5cm) (niêm phong ký hiệu mẫu X) và 01 (một) bịch ni lông (kích thước khoảng 2,5cm x 3,5cm) (niêm phong ký hiệu mẫuY), cả 03 (ba) bịch ni lông trên đều được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Minh T khai nhận: Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 12/6/2019, tại khu vực Resort Duyên Hà thuộc huyện Cam L, Nguyễn Minh T mua 02 (hai) bịch ma túy của người tên Đen (chưa rõ lai lịch) với giá 2.600.000 đồng , mục đích bán lại cho những người nghiện ma túy để kiếm lời. Nguyễn Thanh T đã nhiều lần giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho những người nghiện ma túy để được T cho tiền và ma túy để sử dụng.
Từ khoảng tháng 03/2019 đến ngày 12/6/2019, tại phòng trọ số 6A nhà trọ Magi thuộc tổ dân phố Mỹ Ca, phường Cam Ng, thành phố C; Nguyễn Minh T và Nguyễn Thanh T đã nhiều lần bán ma túy cho Trần Đức Phát, Phạm Hồng A, Nguyễn Văn H, Lê Xuân P. Cụ thể như sau:
Lần 1: Khoảng giữa tháng 3/2019, Nguyễn Minh T bán cho Lê Xuân P 01 (một) bịch ma túy với giá 200.000 đồng.
Lần 2: Khoảng cuối tháng 5/2019, Nguyễn Minh T bán cho Lê Xuân P 01 (một) bịch ma túy với giá 200.000 đồng.
Lần 3: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 30/5/2019, Nguyễn Minh T bán cho Phạm Hồng Anh 01 (một) bịch ma túy với giá 300.000 đồng.
Lần 4: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 30/5/2019 Nguyễn Minh T bán cho Phạm Hồng Anh 01 (một) bịch ma túy với giá 500.000 đồng.
Lần 5: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 08/6/2019, Nguyễn Minh T bán cho Nguyễn Văn H 01 (một) bịch ma túy với giá 200.000 đồng.
Lần 6: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 09/6/2019, Nguyễn Thanh T giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho Trần Đức P 01 (một) bịch ma túy với giá 200.000 đồng.
Lần 7: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 11/6/2019, Nguyễn Thanh T giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho Trần Đức P 01 (một) bịch ma túy với giá 200.000 đồng.
Lần 8: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 12/6/2019, Nguyễn Thanh T giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho Trần Đức P 01 (một) bịch ma túy với giá 500.000 đồng.
Ngoài ra, Nguyễn Minh T, Nguyễn Thanh T khai nhận còn bán ma túy nhiều lần cho người có tên Lý Khùng, Tý ở khu vực số cây số 9 nhưng không nhớ rõ thời gian.
Tại bản kết luận giám định số 340/GĐTP/2019 ngày 28 tháng 6 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận;
Mẫu giám định ký hiệu A, B, C, D, E, F, T, X, Y là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng là 2,2423 (hai phẩy hai bốn hai ba) gam. Ký hiệu mẫu A có khối lượng 0,2591 (không phẩy hai năm chín một) gam là ma túy loại Methamphetamine.
Mẫu giám định ký hiệu G là ma túy loại MDMA, có tổng khối lượng là 1,1796 (một phẩy một bảy chín sáu) gam.
Mẫu giám định ký hiệu H, K, L, M, N, P, Q, S là ma túy loại Ketamine, có tổng khối lượng là 2,3853 (hai phẩy ba tám năm ba) gam.
Tại Bản cáo trạng số 62/CT-VKSCR-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh H truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Đức P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Đức P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm b Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 08 đến 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/02/2020; áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đức P từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T với số tiền từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 10.000.000 (mười triệu) đồng.
* Về vật chứng:
- 01 điện thoại Oppo màu đen, gắn sim số 0374381725 đây là tài sản của Trần Đức P không sử dụng để phục vụ cho việc tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó đề nghị trả lại cho Trần Đức P.
- 01 điện thoại di động màu hồng trắng (màn hình bị vỡ) có gắn sim số 0986505721 đây là tài sản của Nguyễn Thanh T, sử dụng để mua bán ma túy, còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) túi vải màu xanh, 01 (một) hộp giấy màu đen ghi dòng chữ Dior;
01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 (một) hũ nhựa màu xanh lam có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ Doublmint, 01 (một) chai nhựa nhãn hiệu Đảnh Thạnh có nắp chai được đục hai lỗ, một lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh có một đầu hình cầu, 13 (mười ba) đoạn ống hút nhựa màu trắng, 01 (một) kéo inox, 01 (một) kéo có cán bằng nhựa, 01 (một) quẹt gas, 01 (một) bình gas mini màu đen hiệu Bluesky và 01 (một) đoạn ống thủy tinh có một đầu hình cầu. Đây là những dụng cụ chứa ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu xanh, biển kiểm soát 79C1 – 252.46, đây là tài sản của bà Phạm Thị Diễm Thùy, bà Thùy không biết Trần Đức P sử dụng xe của bà để đi mua ma túy sử dụng, đã được trả lại nên không đề nghị xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen, biển số 79C1 – 491.23, đây là tài sản của bà Đào Thị Phượng, bà Phượng không biết Nguyễn Thanh T mượn xe của bà để đi mua bán ma túy, đã được trả lại cho bà nên không đề nghị xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển kiểm soát 79C1 – 361.53, đây là tài sản của bà Trương Thị Nguyên, không liên quan đến vụ án, đã được trả lại cho bà nên không đề nghị xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 79L2 – 3818 của người đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe là ông Nguyễn Văn Đặng, qua xác minh ông Đặng không có mặt tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C điều tra làm rõ xử lý sau.
- Đề nghị tạm giữ số tiền 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn) đồng của Nguyễn Thanh T tại Kho bạc nhà nước thành phố C để đảm bảo thi hành án.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Exciter màu xanh đen mang biển kiểm soát 49N1 – 10112, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone mà vàng trắng có số Imel:359239063441605, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone mà vàng trắng có số Imel:354403069677175, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (mặt lưng có hình vân), có số Imel: 357332088195934. Đây là những tài sản tạm giữ của Nguyễn Minh T, hiện nay T đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra tạm giữ lại Công an thành phố C, khi nào bắt được T sẽ xử lý sau.
- 01 (một) điện thoại Oppo màu xanh ngọc, gắn sim số 0354356328 hiện chưa chứng minh được chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C điều tra làm rõ xử lý sau.
- Đề nghị trả lại cho bà Đào Thị Phượng số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng trong tổng số tiền 12.300.000 (mười hai triệu ba trăm nghìn) đồng của Nguyễn Minh T đang tạm giữ tại Kho bạc nhà nước thành phố C, còn lại 2.300.000 (hai triệu ba trăm nghìn) đồng hiện nay T đang bỏ trốn nên không có căn cứ xử lý, tiếp tục tạm giữ khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thanh T và Trần Đức P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến gì về đề nghị của Đại diện viện kiểm sát; lời nói sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị Diễm Thùy, Đào Thị Phượng, Trương Thị Nguyên, Nguyễn Văn Đặng và người làm chứng Nguyễn Văn H, Phạm Hồng Anh, Lê Xuân P, tuy nhiên những người này đã có lời khai trong hồ sơ, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử đối với các bị cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 292, Khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử theo quy định.
[3] Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh T và Trần Đức P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ được và các chứng cứ khác đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập. Có đủ căn cứ kết luận:
Trong thời gian từ ngày 03/2019 đến ngày 12/6/2019, Nguyễn Thanh T đã có 03 lần giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho Trần Đức P vào các ngày 09/6/2019, 11/6/2019 và 12/6/2019; ngoài ra Nguyễn Thanh T còn nhiều lần tích cực giúp Nguyễn Minh T bán ma túy cho các đối tượng bị nghiện khác nhằm mục đích hưởng tiền công và được T cho ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phần tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Đối với bị cáo Trần Đức P: Ngày 12/6/2019, tại khu vực đường Quốc lộ 1A thuộc tổ dân phố Mỹ Ca, phường Cam Ng, thành phố C, bị cáo P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2591 gam Methamphetamine trong túi quần bên phải. Hành vi của bị cáo Trần Đức P đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phần tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là khách thể được Bộ luật Hình sự bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân P sinh các tội phạm khác. Bị cáo Nguyễn Thanh T, sau khi phạm tội đã bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra và xử lý đối với các bị cáo. Vì vậy, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nhằm giáo dục cho các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thanh T và Trần Đức P đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên được áp dụng quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Nguyễn Thanh T sau khi phạm tội đã bỏ trốn nhưng ra đầu thú nên được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ cho mỗi bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực cải tạo, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng.
Đối với bị can Nguyễn Minh T hiện nay đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra Công an thành phố C đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can số 1425 ngày 26/8/2020. Khi nào bắt được sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
[4] Về vật chứng:
- Số ma túy đã thu giữ gồm là 2,2423 (hai phẩy hai bốn hai ba) gam Methamphetamine; 1,1796 (một phẩy một bảy chín sáu) gam MDMA và 2,3853 (hai phẩy ba tám năm ba) gam Ketamine không hoàn lại sau giám định nên không xem xét.
- 01 điện thoại Oppo màu đen, gắn sim số 0374381725 đây là tài sản của Trần Đức P không sử dụng để phục vụ cho việc tàng trái phép chất ma túy, do đó trả lại cho Trần Đức P.
- 01 điện thoại di động màu hồng trắng (màn hình bị vỡ) có gắn sim số 0986505721 đây là tài sản của Nguyễn Thanh T, sử dụng để mua bán ma túy, còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
- 01 (một) túi vải màu xanh, 01 (một) hộp giấy màu đen ghi dòng chữ Dior;
01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 (một) hũ nhựa màu xanh lam có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ Doublmint, 01 (một) chai nhựa nhãn hiệu Đảnh Thạnh có nắp chai được đục hai lỗ, một lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh có một đầu hình cầu, 13 (mười ba) đoạn ống hút nhựa màu trắng, 01 (một) kéo inox, 01 (một) kéo có cán bằng nhựa, 01 (một) quẹt gas, 01 (một) bình gas mini màu đen hiệu Bluesky và 01 (một) đoạn ống thủy tinh có một đầu hình cầu. Đây là nh ững dụng cụ chứa ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu xanh, biển kiểm soát 79C1 – 252.46, đây là tài sản của bà Phạm Thị Diễm Thùy, bà Thùy không biết Trần Đức P sử dụng xe của bà để đi mua ma túy sử dụng, đã được trả lại cho bà theo biên bản ngày 27/3/2020 nên không xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen, biển số 79C1 – 49123, đây là tài sản của bà Đào Thị Phượng, bà Phượng không biết Nguyễn Thanh T mượn xe của bà để đi mua bán ma túy, đã được trả lại cho bà theo biên bản ngày 01/10/2020 nên không xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius màu đen, biển kiểm soát 79C1 – 361.53, đây là tài sản của bà Trương Thị Nguyên, không liên quan đến vụ án, đã được trả lại cho bà theo biên bản ngày 28/3/2020 nên không xem xét xử lý.
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 79L2 – 3818 của người đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe là ông Nguyễn Văn Đặng, qua xác minh ông Đặng không có mặt tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C điều tra làm rõ xử lý sau.
- Số tiền 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn) đồng tạm giữ của Nguyễn Thanh T tại Kho bạc nhà nước thành phố C, tài khoản số 3949.0.9041629.00000, đây không phải là tiền T có được từ việc giúp T bán ma túy, tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ tại Kho bạc để đảm bảo thi hành án hình phạt bổ sung.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Exciter màu xanh đen mang biển kiểm soát 49N1 – 10112, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone mà vàng trắng có số Imel:359239063441605, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone mà vàng trắng có số Imel:354403069677175, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (mặt lưng có hình vân), có số Imel: 357332088195934, Số tiền 12.300.000 (mười hai triệu ba trăm nghìn) đồng đã nộp tại Kho bạc nhà nước thành phố C, tài khoản số 3949.0.9041629.00000. Đây là những tài sản tạm giữ của Nguyễn Minh T, hiện nay T đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra tạm giữ lại Công an thành phố C, khi nào bắt được T sẽ xử lý sau.
- 01 (một) điện thoại Oppo màu xanh ngọc, gắn sim số 0354356328 hiện chưa chứng minh được chủ sở hữu. Cơ quan hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu, đang tạm giữ tại Công an thành phố C nên không xem xét xử lý.
- Số tiền 12.300.000 đồng tạm giữ của Nguyễn Minh T, hiện nay T đang bỏ trốn nên không có căn cứ xử lý, tiếp tục tạm giữ tại Kho bạc nhà nước thành phố C, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
[5] Về án phí: Vì các bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về kiến nghị:
- Đối với người tên Đen, chưa xác định được nhân thân lai lịch, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiếp tục xác minh làm rõ có hay không việc bán ma túy cho Nguyễn Minh T để xử lý theo quy định của pháp luật.
- Trần Đức P khai nhận số tiền 500.000 đồng dùng mua ma túy vào ngày 12/6/2019 cà của Lương Thị Ngọc Khánh đưa cho P để cùng đi mua. Qua xác minh, Khánh không có mặt ở địa phương, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xác định có hay không hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để xử lý theo quy định của pháp luật.
[7] Về các vấn đề khác Chủ sở hữu nhà trọ Magi, không biết Nguyễn Minh T và Nguyễn Thanh T thuê phòng để bán ma túy nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bà Phạm Thị Diễm Thùy, Đào Thị Phượng, Trương Thị Nguyên đã cho Trần Đức P, Nguyễn Minh T, Phạm Hồng Anh mượn xe mô tô. Tuy nhiên, bà Thùy, bà Nguyên không biết P, Anh sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy; bà Phượng không biết T mượn xe để mua bán ma túy nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về điều luật áp dụng và hình phạt - Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Khoản 5 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, Khoản 2 Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ 13/02/2020.
- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử phạt bị cáo Trần Đức P 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 5.000.000 (năm triệu) đồng.
2. Về vật chứng:
- Trả lại cho Trần Đức P 01 điện thoại Oppo màu đen, gắn sim số 0374381725 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.
- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu hồng trắng (màn hình bị vỡ) có gắn sim số 0986505721 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.
- Tiếp tục tạm giữ tại Kho bạc nhà nước thành phố C số tiền 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn) đồng của Nguyễn Thanh T theo giấy theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9041629.00000 ngày 12/10/2020 của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam để đảm bảo cho việc thi hành án hình phạt bổ sung.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) túi vải màu xanh, 01 (một) hộp giấy màu đen ghi dòng chữ Dior; 01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 (một) hũ nhựa màu xanh lam có ghi dòng chữ XYLYTOL, 01 hũ nhựa màu xanh lá cây có ghi dòng chữ Doublmint, 01 (một) chai nhựa nhãn hiệu Đảnh Thạnh có nắp chai được đục hai lỗ, một lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh có một đầu hình cầu, 13 (mười ba) đoạn ống hút nhựa màu trắng, 01 (một) kéo inox, 01 (một) kéo có cán bằng nhựa, 01 (một) quẹt gas, 01 (một) bình gas mini màu đen hiệu Bluesky và 01 (một) đoạn ống thủy tinh có một đầu hình cầu theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.
3. Về kiến nghị:
- Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh đối tượng có tên Đen, để làm rõ có hay không việc bán ma túy cho Nguyễn Minh T để xử lý theo quy định của pháp luật.
- Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh đối tượng có tên Lương Thị Ngọc Khánh để làm rõ có hay không hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí:
- Bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo Trần Đức P phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 67/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 67/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về