Bản án 67/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Lâm T; sinh ngày 21/6/2002 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 8 tháng 11 ngày), tại Sóc Trăng; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: Ấp TH, xã TQ, huyện MX, tỉnh Sóc Trăng); nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn: 9/12); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh L và bà Nguyễn Thị U; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2020 đến nay (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị u, sinh năm 1978; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: ấp TH, xã TQ, huyện MX, Tỉnh Sóc Trăng); nghề nghiệp: Làm công; là mẹ ruột của bị cáo T (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Quốc V, Luật sư của Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Thanh và Cộng sự, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 04 giờ ngày 03/3/2020, Tổ tuần tra 363 Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra đến trước số 04 Trần Thị Nơi, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện nhóm gồm 03 người cùng đi trên 01 xe gắn máy biển số 67L1-99301 gồm: Nguyễn Hữu L1, Võ Lâm T và Mai Thế p nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện và thu giữ trên tay của T 01 bóp da màu đen, bên trong có 01 mảnh vụn viên nén màu xanh và 01 mảnh vụn viên nén màu hồng để trong 01 gói giấy màu hong (T khai nhận là ma túy của T để sử dụng). Sau đó, Công an đưa T, L1 và p về trụ sở Công an Phường 4, Quận 8 lấy lời khai làm rõ vụ việc và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Võ Lâm T. Ngoài ra, Công an còn tạm giữ của L1 01 xe gắn máy biển số 67L1- 99301; tạm giữ của T 01 điện thoại di động. Vụ việc được lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan điều tra Công an Quận 8 điều tra, làm rõ.

Tại bản Kết luận giám định số: 401/KLGĐ-H ngày 11/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Lâm T và hình dấu Công an Phường 4, Quận 8, bên trong có:

- 01 mảnh vụn viên nén màu xanh được ký hiệu mẫu m1 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1774g (không phẩy một bảy bảy bốn gam), loại MDMA.

- 01 mảnh vụn viên nén màu hồng được ký hiệu mẫu m2 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1289g (không phẩy một hai tám chín gam), loại MDMA.

Quá trình điều tra, Võ Lâm T khai nhận: Vào tháng 02/2020 (không rõ ngày), T có sử dụng ma túy tổng hợp (thường gọi là thuốc lắc) cùng với bạn quen ngoài xã hội tại quán Bar (không rõ địa chỉ) tại khu vực Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi sử dụng ma túy, T nhặt mảnh vụn ma túy tổng hợp (thuốc lắc) còn dư lại gồm: 01 mảnh vụn viên nén màu xanh và 01 mảnh vụn viên nén màu hồng để trong 01 gói giấy màu hồng cất vào bóp da màu đen của T để dành sử dụng. Khoảng 03 giờ 50 phút ngày 03/3/2020, sau khi T, Nguyễn Hữu L1 và Mai Thế p cùng hát karaoke với nhau xong thì cả ba đi về. L1 điều khiển xe gắn máy biển số 67L1-993.01 chở p và T đến trước số 04 Trần Thị Nơi, Phường 4, Quận 8 thì bị Công an phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

L1 và P khai không biết nguồn gốc và không liên quan đến số ma túy T cất giữ. Lời khai của L1 và p phù hợp với lời khai của T.

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 23/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Võ Lâm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Lâm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Khi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 91, 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Võ Lâm T từ 11 tháng đến 16 tháng tù. về vật chứng thu giữ, đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát áp dụng để truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn bỏ học đi làm sớm, thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi còn trẻ ham chơi, khả năng nhận thức chưa đầy đủ, vì tò mò và do bị bạn bè xấu rủ rê mà sử dụng ma túy; Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do bị cáo có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cùng áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, làm công dân có ích cho xã hội.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến tranh luận: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và xâm phạm đến sự an toàn, trật tự xã hội gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, nên không đồng ý quan điểm của người bào chữa cho rằng hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Do đó không đủ căn cứ áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị cho bị cáo hưởng án treo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo trình bày: Thống nhất đồng ý với quan điểm bào chữa của người bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định mức án thấp nhất cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị cáo không bổ sung ý kiến bào chữa, bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 04 giờ 00 phút, ngày 03/3/2020, tại trước số 04 Trần Thị Nơi, phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Võ Lâm T có hành vi cất giữ trái phép ma tuý ở thể rắn có khối lượng 0,3063g, loại MDMA, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

[3] Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...

[4] Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và xâm phạm đến sự an toàn và trật tự xã hội xã hội, gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Võ Lâm T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo chua có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[6] Khi phạm tội, bị cáo chứa đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử áp dụng các điều 91, 101 của Bộ luật Hình sự để xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Do bị cáo chua đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Tại phiên toà, người bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét các yêu tố về hoàn cảnh, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.

[9] Ngoài ra, người bào chữa còn đề nghị áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi cho rằng bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn nên bị cáo có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì vậy, đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo phạm tội về ma tuý là đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy nên không có cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo là chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Mặt khác, mặc dù khi phạm tội cũng như tại thời điểm xét xử, bị cáo chưa đủ 18 tuổi nhưng xét tính chất nguy hiểm cho xã hội và mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngtra và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội. Do đó, đề nghị của người bào chữa về việc xem xét cho bị cáo được hưởng án treo là không có căn cứ chấp nhận.

[9] Quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và đề nghị áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho bị cáo hưởng án treo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không có căn cứ để chấp nhận.

[10] Về vật chứng vụ án, quá trình điều tra thu giữ số ma túy trong 01 gói niêm phong ghi vụ số 401/2020 Q8, xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

- 01 bóp da màu đen của Võ Lâm T, xét bị cáo có dùng để cất giữ trái phép chất ma túy nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[11] 01 điện thoại di động hiệu Samsung gắn sim số 0906502261 tạm giữ của bị cáo T, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo.

[12] Xe gắn máy biển so 67L1-99301, qua điều tra xác minh thuộc sở hữu của ông Nguyễn Hữu N (cha một của anh Nguyễn Hữu Ll). L1 mượn xe của ông N sử dụng, sau đó dùng làm p tiện chở p và T. Việc T có cất giữ ma túy ông N và anh L1 không biết. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã lập biên bản trả xe trên cho ông N; đồng thời ông N, anh L1 cũng không có ý kiến yêu cầu gì liên quan đến việc tạm giữ, xử lý tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; các Điều 91, 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Võ Lâm T01 (một) năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 03/3/2020.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 401/2020 Q8, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Võ Lâm T, Lê Minh H, hình dấu Công an Phường 4, Quận 8 và chữ ký giám định viên Phan Tấn Q.

- 01 (một) bóp da, màu đen, dài khoảng 20cm.

Trả lại cho bị cáo Võ Lâm T01 (một) điện thoại di động, hiệu Samsung, màu xanh, không có số IMEI, gắn sim số 0906502261, bị vỡ màn hình (không kiểm tra tình trạng bên trong máy).

(Tất cả theo Phiếu nhập kho vật chứng số 66/PNK ngày 25/3/2020).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Võ Lâm T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị cáo; người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;