Bản án 67/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 67/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Hôm nay, ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 581/2020/TLST– HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXX-ST ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thúy H sinh năm 1990.

ĐKHKTT: Số nhà 10, Ngõ 3, đường B, khối 9, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Công K, sinh năm: 1973.

ĐKHKTT: Số nhà 10, Ngõ 3, đường B, khối 9, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam X. Địa chỉ: xã L, huyện T, tỉnh H.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn đề ngày 16/9/2020, bản tự khai và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Phạm Thị Thúy H trình bày: Chị và anh Nguyễn Công K kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn vào ngày 18/12/2015 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H phát hiện anh K tái nghiện, mặc dù chị H cùng với gia đình khuyên can nhưng anh K không nghe. Vợ chồng thường xuyên cãi cọ nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và đến đỉnh điểm là ngày 25/10/2016 anh K bị bắt và bị Tòa án nhân dân thành phố V xét xử 06 (Sáu) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và hiện nay anh K đang chấp hành án tại Trại giam X và vợ chồng không liên lạc, không có trách nhiệm gì với nhau. Đến nay, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Công K.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Phạm Thị Thúy H và anh Nguyễn Công K có 01 con chung. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng giao 01 (một) con chung là Nguyễn Công Khánh L, sinh ngày 28/3/2016 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và đề nghị tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho anh K vì hiện tại anh K đang chấp hành án tại Trại giam X.

Về tài sản: Chị H trình bày vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nào. Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/11/2020 tại trại giam X thì anh Nguyễn Công K trình bày: Anh và chị Phạm Thị Thúy H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh N vào ngày 18/12/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh vi phạm pháp luật phải đi chấp hành án nên không thể quan tâm, vun đắp cuộc sống chung nên tình cảm vợ chồng có nhiều thay đổi. Vợ chồng ly thân từ thời điểm 25/10/2016 cho đến nay. Hiện nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung như chị Phạm Thị Thúy H đã trình bày. Nay ly hôn anh đồng ý giao 01 (một) con chung là Nguyễn Công Khánh L, sinh ngày 28/3/2016 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Đề nghị tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho anh vì hiện tại anh đang chấp hành án tại Trại giam X.

Về tài sản: Anh K trình bày anh và chị H quá trình chung sống chưa tạo lập được tài sản chung và không có khoản nợ chung nào. Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: - Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ đúng các quy định tại Điều 48 BLTTDS; việc thụ lý và giải quyết vụ án đúng quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 BLTTDS; xác định đúng tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo đúng quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của BLTTDS. Do anh Nguyễn Công K hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam X và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh K theo các điều 227, 228 BLTTDS là có cơ sở. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Đương sự đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71, 72 BLTTDS.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, điều 91, Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự: Về tình cảm: Cho chị Phạm Thị Thúy H được ly hôn anh Nguyễn Công K. Về con chung: Giao 01 (một) con chung là Nguyễn Công Khánh L, sinh ngày 28/3/2016 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh Nguyễn Công K; Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc chị Phạm Thị Thúy H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về thẩm quyền: Đây là vụ án về tranh chấp hôn nhân và đình, bị đơn là anh Nguyễn Công K hiện có Hộ khẩu thường trú tại khối 9, đường B, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nên căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vinh.

[1.2]. Về việc vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa: Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Nguyễn Công K theo đúng quy định tại các Điều 196, 208, 220 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng do anh K đang chấp hành án tại Trại giam X. Địa chỉ: xã L, huyện T, tỉnh H nên không thể tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh K đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh K là phù hợp với quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Thúy H kết hôn với anh Nguyễn Công K trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 18/12/2015 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh N. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh K là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét quá trình chung sống giữa chị H và anh K thấy rằng: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H phát hiện anh K tái nghiện, mặc dù chị H cùng với gia đình khuyên can nhưng anh K không nghe. Vợ chồng thường xuyên cãi cọ nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng khi anh K bị bắt vào ngày 25/10/2016 và bị xét xử về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và hiện nay anh K đang chấp hành án tại Trại giam X và vợ chồng không quan tâm, không có trách nhiệm gì với nhau. Như vậy, có thể khẳng định tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh K mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp pháp luật và anh K cũng đồng ý ly hôn nên cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh K.

[2.2]. Về con chung: Quá trình chung sống chị Phạm Thị Thúy H và anh Nguyễn Công K có 01 con chung. Nay ly hôn chị H và anh K đều có nguyện vọng giao 01 (một) con chung là Nguyễn Công Khánh L, sinh ngày 28/3/2016 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và đề nghị tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho anh K. Hội đồng xét thấy chị H hiện nay đang sống cùng cháu L và có công việc, thu nhập ổn định. Còn anh K hiện đang đang chấp hành án tại Trại giam X. Nên chị H là người có đủ điều kiện để chăm sóc con chung tốt nhất nên cần chấp nhận nguyện vọng của chị H, anh K về việc nuôi con và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh K.

[2.3]. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Thúy H và anh Nguyễn Công K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[2.4]. Về án phí: Chị Phạm Thị Thúy H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 97, Điều 147, khoản 2 Điều 207, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Về Hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Thúy H được ly hôn anh Nguyễn Công K.

2. Về con chung: Giao 01 (một) con chung là Nguyễn Công Khánh L, sinh ngày 28/3/2016 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Công K.

Anh Nguyễn Công K có quyền đi lại thăm nom con chung, chị Phạm Thị Thúy H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Nguyễn Công K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại Khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Thúy H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo Biên lai số AA/2020/0001104 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Chị Phạm Thị Thúy H có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An; Anh Nguyễn Công K có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:67/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;