TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q
BẢN ÁN 67/2019/HSST NGÀY 30/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 30 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q- Tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 19/11/2019 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN D Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 22/11/1986, tại thị xã Q, tỉnh Q Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm N1, xã L, thị xã Q, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Không. Họ và tên bố: Nguyễn Văn D1 ( Chết); Họ và tên mẹ: Ngô Thị N ( Đã chết). Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Vợ: chưa.Tiền án, tiền sự: Chưa. Nhân thân: Ngày 04/4/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 04/8/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Anh Đoàn Văn H, sinh năm 1988 Nơi ở: Xóm N1, xã L, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa. Anh Bùi Tiến D, sinh năm 1986. Vắng mặt tại phiên tòa.
Nơi ở: Thôn 6, xã H, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa.
Anh Đinh Đức C, sinh năm 1993. Nơi ở: Thôn 7, xã Hiệp Hòa, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/8/2019, tại khu 3, phường P, thị xã Q, tỉnh Q, Công an thị xã Q kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bán. Thu giữ tại túi quần phía trước của D đang mặc 04 đoạn ống nhựa, được hàn kín hai đầu, bên trong mỗi đoạn ống nhựa có chất bột màu trắng dạng cục; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của D 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc. Ngoài ra, thu giữ 01 xe mô tô màu sơn vàng không có biển kiểm soát, nhãn hiệu SYM.
Tại bản kết luận giám định số 676/GĐMT ngày 06/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: chất bột màu trắng là vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn D là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng 0,122 gam.
Quá trình điều tra, bị can D khai nhận số ma túy trên là của D mua của đối tượng tên T, khoảng 45 tuổi, trú tại khu Yên Đông, phường Y, thị xã Q với mục đích bán và sử dụng cho bản thân. D nghiện ma túy từ năm 2015 đến nay, loại ma túy sử dụng là heroine dưới hình thức tiêm trích. Để có ma túy sử dụng cho bản thân, D bán ma túy cho nhiều người nhưng chỉ nhớ bán cho Đoàn Văn H (Sinh năm 1988, trú tại thôn 6, xã Sô, thị xã Q, tỉnh Q) khoảng 10 lần, trong đó hai lần gần đây nhất, tại khu 7, phường Phong Cốc, vào ngày 02/8/2019, D bán cho Hợp 02 tép ma túy với số tiền 300.000 đồng và ngày 04/8/2019 Hợp đưa cho D số tiền 280.000 đồng để mua hai tép ma túy. Sau đó, D tự bỏ thêm 120.000 đồng của D được tổng số tiền 400.000 đồng và mua được 04 tép ma túy. Sau khi mua ma túy, D điều khiển xe máy đến khu vực nghĩa trang Phong Cốc, thị xã Q để đưa cho Hợp hai tép nhưng chưa kịp đưa thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên. Ngoài ra, D còn khai trước đó D đã bán ma túy cho Xiệp (nhà ở Hiệp Hòa) 01 lần với mục đích kiếm lời sử dụng cho bản thân.
Đoàn Văn H có lời khai: Hợp nhiều lần mua ma túy của D, gần đây nhất là ngày 02/8/2019 với số tiền 300.000 đồng/02 tép ma túy và ngày 04/8/2019 với số tiền 280.000 đồng/02 tép ma túy.
Vật chứng thu giữ của bị can gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh cũ đã qua sử dụng; 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc chuyển Chi cục Thi hành án dân sự theo quy định. Đối với 01 xe mô tô SYM không có biển kiểm soát thu giữ của D, quá trình điều tra không xác định được nguồn gốc, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và đề nghị xử lý sau.
Tại bản Cáo trạng số 58/CT - VKSQY ngày 11/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thị xã Q vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn D: Từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/8/2019.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh là phương tiện bị cáo dùng liên lạc bán ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 xi lanh loại 3 ml.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận trong hai ngày 02/8/2019 và ngày 04/8/2019, bị cáo đã có hành vi bán hai lần ma túy cho Đoàn Văn H. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
Về hành vi phạm tội:
[1]Trong quá trình điều tra ban đầu và tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy phù hợp với nội dung bản Cáo trạng. Thể hiện: Bị cáo Nguyễn Văn D đã bán ma túy cho Đoàn Văn H hai lần. Với số tiền lần lượt là 300.000 đ/ 02 tép ma túy vào ngày 02/8/2019 và 280.000 đ/ 02 tép ma túy ngày 04/8/2019. Vào lần thứ hai Đoàn Văn H đưa cho bị cáo Nguyễn Văn D số tiền 280.000 đ để mua 02 tép ma túy. Bị cáo có bỏ thêm số tiền 120.000 đ được tổng số 400.000 đ để mua 04 tép ma túy. Khi mua ma túy xong, bị cáo đi xe xuống khu vực nghĩa trang Phong Cốc để đưa 02 tép ma túy cho Hợp nhưng chưa kịp đưa thì bị Công an bắt quả tang.
Người làm chứng anh Đoàn Văn H khai nhận: Anh H đã mua ma túy của Nguyễn Văn D nhiều lần. Gần đây nhất là ngày 02/8/2019 anh H mua của D số tiền 300.000 đ được 2 tép ma túy, ngày 04/8/2019 anh H đã gửi số tiền 280.000 đ cho D mua 2 tép ma túy nhưng anh H chưa nhận được.
Người làm chứng anh Bùi Tiến D, anh Đinh Đức C có lời khai: Khoảng 11 giờ ngày 04/8/2019, tại khu 7 phường Phong Cốc, thị xã Q, hai anh thấy Đoàn Văn H đưa số tiền 280.000 đồng do Hợp và Công cùng góp chung cho một người đàn ông để mua ma túy cho cả bọn sử dụng. Sau đó, khi cả ba đứng đợi người đàn ông trên mang ma túy đến thì Công an thị xã Q triệu tập làm việc.
Người chứng kiến anh Tô văn M và anh Lê Văn T khai: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/8/2019,hai anh được chứng kiến Công an bắt giữ Nguyễn Văn D. Thu giữ của D: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh; 04 đoạn ống nhựa màu xanh, đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 xi-lanh nhựa màu trắng loại 3 ml Như vậy lời khai người làm chứng trong quá trình điều tra phù hợp lời khai bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: Trong ngày 02/8/2019, bị cáo Nguyễn Văn D có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đoàn Văn H với số tiền là 300.000 đồng/02 tép ma túy. Ngày 04/8/2019, tại khu 3 phường Phong Cốc- Thị xã Q, Nguyễn Văn D đang cầm 04 tép Hê rô- in có khối lượng 0,122 g( Không phẩy một trăm hai mươi hai gam) để bán cho Đoàn Văn H thì bị Công an bắt quả tang, Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn D phạm vào tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 quy định:
1.“ Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
b) “Phạm tội 02 lần trở lên”..
[2] Hành vi bị cáo gây nên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo mua bán trái phép chất ma túy đã tiếp tay cho những kẻ buôn ma túy, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và làm gia tăng các loại tội phạm khác; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội. Bị cáo nhận thức được việc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật song do coi thường pháp luật, bị cáo đã có hành vi mua ma túy về với mục đích bán kiếm lời. Trong các ngày 02/8/2019 và ngày 04/8/2019, bị cáo Nguyễn Văn D đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho anh Đoàn Văn H. Do đó bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết tăng nặng định khung “ Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Về nhân thân bị cáo: Ngày 04/4/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp tài sản” đã được xóa án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, giáo dục bản thân. Cho nên việc đưa bị cáo ra xử lý trước pháp luật là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phòng chống các tội phạm ma túy trong tình hình hiện nay. Vì vậy cần có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi bị cáo gây nên.
[3] Về tình tiết tăng nặng: Không
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi vi phạm. Nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, sau trở thành công dân tốt cho xã hội.
[5] Về vật chứng trong vụ án: Lượng ma túy gửi giám định không hoàn lại nên không xét.
Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Văn D: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh là phương tiện bị cáo dùng liên lạc bán ma túy cần tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml thu giữ của Nguyễn Văn D không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Các vấn đề khác: Đối với 01 xe mô tô SYM không có biển kiểm soát thu giữ của D, quá trình điều tra không xác định được nguồn gốc, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ nên không đề cập.
Trong vụ án này, bị cáo D khai nhiều lần mua ma túy của T và ngoài bán ma túy cho Hợp, D còn bán ma túy cho X nhưng quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được lý lịch cụ thể của T và X nên không có cơ sở để xử lý.
[7] Về hình phạt bổ sung( Phạt tiền): Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung( Phạt tiền) đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
TUYÊN BỐ: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Nguyễn Văn D: 7 ( Bảy) năm 06 ( Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/8/2019.
2. Xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q- Tỉnh Q.
Tịch thu tiêu hủy: 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 3 ml theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q- Tỉnh Q.
3. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ khoản 1-2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí
Bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 67/2019/HSST ngày 30/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 67/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về