Bản án 67/2019/HS-ST ngày 28/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 28/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2019/TLST- HS ngày 01/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST- HS ngày 14/10/2019 đối với bị cáo:

Lương Tuấn Đ, sinh năm 1973 tại Bắc Ninh;

Nơi cư trú: Thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Hồng Đ, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1946; có vợ là Nguyễn Thị A, sinh năm 1987 (đã ly hôn) và 03 con, con lớn sinh năm 1993 và con nhỏ sinh năm 2011; tiền án: Có 01 tiền án là Bản án số 15/2016/HSST ngày 27/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xử phạt 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/02/2019; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 18/2008/HSST ngày 03/4/2008 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Đắc Hải A, sinh năm 1997, vắng mặt;

Địa chỉ: Thôn N, xã L, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

2. Chị Lương Thị Vân A, , sinh năm 1993, có mặt;

Địa chỉ: Thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 30 phút, ngày 21/6/2019, tại đường làng thôn Thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh tổ công tác Công an huyện Gia Bình và Công an xã Giang Sơn bắt quả tang Lương Tuấn Đ đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đắc Hải A. Quá trình bắt quả tang, Hải A tự giác giao nộp từ tay trái Hải A đang cầm một túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M1), Hải A khai nhận, đây là số ma túy đá Hải A vừa mua được của Đ với giá 300.000 đồng; thu giữ của Đ số tiền 300.000 đồng tại túi quần phía trước, bên trái Đ đang mặc, Đ khai đây là số tiền Đ vừa bán ma túy cho Hải A mà có; ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ tại bàn tay trái Đ đang cầm một túi nilon màu xanh, mở ra bên trong gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 11 viên nén hình tròn màu hồng, Đ khai đây là số ma túy đá và ma túy ngựa Đ cất giấu để khi có người hỏi mua sẽ bán kiếm lời. Cả hai túi nilon này được cho vào một phong bì thư niêm phong theo quy định, ký hiệu M2; thu giữ của Đ một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng; thu giữ của Hải A một tờ giấy ghi các con số 99- 10n, 14- 10n, 56- 10n và một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại màn hình đen trắng. Sau đó, tổ công tác đã yêu cầu Đ, Hải A và người làm chứng về Công an xã Giang Sơn tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 524/KLGĐMT-PC09 ngày 21/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,0264 gam; Là ma túy; Loại: Methamphetamine.

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 1,6375 gam; Là ma túy; Loại: Methamphetamine.

+ 11 viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,9923 gam; Là ma túy; Loại: Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.

*. Tại cáo trạng số 66/CT-VKSGB ngày 30/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Lương Tuấn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

*. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

*. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Luận tội và đề nghị như sau:

- Tuyên bố bị cáo Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đ từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 21/6/2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Đ từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 300.000 đ đã thu giữ của bị cáo; Tịch thu tiêu hủy: 01 tờ giấy ghi các con số: 99 – 10n, 14 – 10n, 56 – 10n thu giữ của anh Hải A;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng thu giữ của bị cáo Đ;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại màn hình đen trắng thu giữ của anh Hải A;

Trả lại cho chị Vân A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng thu giữ của bị cáo Đ.

*. Sau khi nghe bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa, mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đúng như bản luận tội đã nêu.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nhận thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Lương Tuấn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng đã được thu hồi, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 21/6/2019, tại đường làng thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh khi Đ đang có hành vi bán trái phép một gói ma túy có khối lượng 0,0264 gam, loại ma túy Methamphetamine cho Nguyễn Đắc Hải A với giá 300.000 đồng thì bị tổ công tác Công an huyện Gia Bình và Công an xã Giang Sơn phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra, còn thu giữ tại tay trái Đ đang cầm một túi ma túy có tổng khối lượng 2,6298 gam, loại ma túy Methamphetamine. Đ khai nhận, toàn bộ số ma túy này, Đ cất giấu để khi có người hỏi mua Đ sẽ bán kiếm lời. Tổng khối lượng số ma túy mà Đ đã bán và tàng trữ để bán trái phép là 2,6562 gam, loại ma túy Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện để nhằm mục đích hưởng lợi, chứng tỏ bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình đã truy tố

[2]. Về nhân thân, tính chất, mức độ của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét thấy, bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, xét tính chất và mức độ tội phạm của bị cáo gây ra là nguy hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc, phẫn nộ và hoang mang trong quần chúng nhân dân; hơn nữa, bị cáo còn có nhân thân xấu. Do đó, cần phải có mức hình phạt thật nghiêm, cho bị cáo cách ly xã hội một thời gian, để có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, răn đe phòng ngừa chung, không tạo ra tiền lệ xấu, ngăn chặn sự gia tăng loại tội phạm nguy hiểm này và góp phần làm trong sạch, lành mạnh đời sống xã hội và niềm tin vào pháp luật của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; ngoài ra, bị cáo có có thời gian tham gia quân ngũ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Để thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, với số tiền 5.000.000 đồng để sung vào công quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự là phù hợp.

[4]. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy số vật chứng, là:

4.1. 01 phong bì thư niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

4.2. Số tiền 300.000 đồng đã thu giữ của bị cáo là do phạm tội mà có (số tiền mua bán ma túy) nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

4.3. 01 tờ giấy ghi các con số: 99 – 10n, 14 – 10n, 56 – 10n thu giữ của anh Hải A là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

4.4. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

4.5. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại màn hình đen trắng thu giữ của anh Hải A là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

4.6. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng thu giữ của bị cáo Đ, là vật chứng không liên quan tới tội phạm và được xác định thuộc sở hữu của chị Vân A (bị cáo Đ mượn của chị Vân A, là con gái).

[5]. Về các vấn đề khác:

5.1. Đối với Nguyễn Đắc Hải A, là người có hành vi mua ma túy của Đ vào chiều ngày 21/6/2019 nhằm mục đích để sử dụng. Do lượng ma túy Hải A mua và tàng trữ dưới 0,1 gam và trước đó Hải A không có tiền án, tiền sự về các tội liên quan đến ma túy nên Công an huyện Gia Bình không xem xét xử lý hình sự đối với Hải A. Do đó, không đề cập xem xét.

5.2. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Đ vào sáng ngày 21/6/2019 tại khu vực Cột đồng hồ thành phố Bắc Ninh. Do Đ không biết tên, tuổi địa chỉ hay đặc điểm nào khác của người đàn ông nói trên nên Công an huyện Gia Bình không có căn cứ để xác minh, làm rõ. Do đó, không đề cập xem xét.

5.3. Đối với Nguyễn Văn L và Nguyễn Xuân T là hai người đưa Hải A đến nhà Đ để mua ma túy. Do L và T không biết mục đích Hải A đến nhà Đ để thực hiện hành vi trái pháp luật nên không có đủ căn cứ để xem xét xử lý đối với L và T. Do đó, không đề cập xem xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1.1. Tuyên bố bị cáo Lương Tuấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.2. Xử phạt bị cáo Lương Tuấn Đ 48 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 21/6/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để đảm bảo việc thi hành án.

1.3. Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Lương Tuấn Đ 5.000.000 đồng để sung vào công quỹ Nhà nước.

2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

2.1. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định;

2.2. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Đ;

2.3. Tịch thu tiêu hủy: 01 tờ giấy ghi các con số: 99 – 10n, 14 – 10n, 56 – 10n thu giữ của anh Nguyễn Đắc Hải A;

2.4. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng thu giữ của bị cáo Đ;

2.5. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại màn hình đen trắng thu giữ của anh Hải A;

2.6. Trả lại cho chị Vân A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng thu giữ của bị cáo Đ.

Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/9/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Bình.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TV Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống Đ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 28/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;