Bản án 67/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lù Văn P; tên gọi khác: Lù Văn Ph; sinh năm 1972; tại xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản H, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La; nơi ở hiện nay: Bản K, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; con ông: Lù Văn C, sinh năm 1940 (Đã chết) và con bà: Lù Thị Y, sinh năm 1948 (Đã chết); bị cáo có vợ là Quàng Thị X, sinh năm 1979 và 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/6/2019 đến ngày 12/6/2019 và đến ngày 12/6/2019 bị cáo được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Lò Văn T; sinh năm 1975; nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 00 ngày 06/6/2019 Lù Văn P một mình đi bộ từ nhà ở bản K, xã Q đến nhà Lò Văn T, sinh năm 1975, trú tại bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên để hỏi mua Heroine về để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Qua trao đổi P đã mua được của Lò Văn T 02 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được Heroine P cất giấu gói Heroine vào túi quần bên trái đang mặc trên người và đi về nhà. Khi P về đến nhà được một lúc thì có một nam thanh niên, P không biết tên, tuổi, địa chỉ đến hỏi mua Heroine, P lấy gói Heroine trong túi quần ra dùng dao lam cắt một phần nhỏ rồi lấy mảnh giấy gói lại đưa cho người thanh niên đó và thu được số tiền 50.000 đồng. Sau khi mua bán xong thanh niên đó đi đâu thì P không biết còn P cất gói Heroine còn lại vào trong túi quần đang mặc. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày Lù Văn P bị tổ công tác công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lù Văn P 02 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh, tạm giữ số tiền 50.000 đồng. Tổ công tác đã đưa Lù Văn P cùng vật chứng thu giữ được về Cơ quan điều tra để làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 02 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo được xác định khối lượng là 0,37 gam, cơ quan điều tra đã trích mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số: 123, ngày 18/6/2019. Tại bản Kết luận giám định số: 662/-PC09 ngày 25/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lù Văn P gửi giám định là chất Ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 74/CT-VKS-TG ngày 22 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lù Văn P về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa Vị kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS tuyên phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015; tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,26 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 02 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Tịch thu 50.000đ là số tiền P bán ma túy để sung quỹ Nhà nước. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Phớ nhận mình đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi của bị cáo; thì tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận: Khoảng Khoảng 10 giờ 00 ngày 06/6/2019 Lù Văn P đã đến nhà người có tên Lò Văn T, sinh năm 1975, trú tại bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên để hỏi mua Heroine về để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Qua trao đổi P đã mua được của Lò Văn T 02 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được Heroine P cất giấu gói Heroine vào túi quần bên trái đang mặc trên người và đi về nhà. Khi P về đến nhà được một lúc thì có một nam thanh niên, P không biết tên, tuổi, địa chỉ đến hỏi mua Heroine, P lấy gói Heroine trong túi quần ra dùng dao lam cắt một phần nhỏ rồi lấy mảnh giấy gói lại đưa cho người thanh niên đó và thu được số tiền 50.000 đồng. Sau khi mua bán xong thanh niên đó đi đâu thì P không biết còn P cất gói Heroine còn lại vào trong túi quần đang mặc thì bị phát hiện và bắt quả tang. Số Heroine thu giữ được xác định khối lượng là 0,37 gam. Quá trình mở niêm phong xác định khối lượng thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ được xác định là hoàn toàn chính xác. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng và tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi mua ma túy của bị cáo nhằm mục đích vừa sử dụng vừa bán lẻ kiếm lời và bị cáo bán Heroine cho người không quen biết được 50.000đ, như vậy bị cáo đã có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, theo Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, đồng thời hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm cho tình hình phạm tội về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp và cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi tàng trữ số Heroine thu giữ được xác định khối lượng là 0,37 gam với mục đích vừa sử dụng vừa bán lẻ kiếm lời của bị cáo và bị cáo đã bán Heroine cho một người, do đó không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lù Văn P sinh ra và lớn lên tại xã T, huyện T, tỉnh Sơn La. Bị cáo được gia đình cho học đến lớp 8 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Đến năm 1990 bị cáo sống như vợ chồng với Lò Thị L, sinh năm 1974 ở tại bản H, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La cho đến năm 2010 thì không còn tiếp tục sống chung với nhau. Năm 1997 nghiện chất ma túy. Năm 1997 bị Tòa án tuyên phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và bị tuyên phạt 24 tháng tù, đến năm 1999 ra trại về địa phương sinh sống. Năm 2010 chuyển đến bản K, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên chung sống cùng chị Quàng Thị X, sinh năm 1979, đến năm 2013 thì mới đi đăng ký kết hôn. Đến ngày 11/6/2019 bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là ông Lù Văn C được tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Bị cáo đã từng nhận được sự cải tạo giáo dục của Nhà nước, nhưng không lấy đó làm bài học để thay đổi, sống lương thiện hơn mà bị cáo khi về địa phương sinh sống tiếp tục tái nghiện ma túy. Cũng chính vì nghiện ma túy, mà dẫn đến việc bị cáo có hành vi phạm tội như ngày hôm nay. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện; qua đó thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là một cơ hội nữa cho bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Theo khoản 5 Điều 251 BLHS quy định; bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Đối với Lò Văn T, sinh năm 1975, trú tại bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên, người mà P khai đã bán Heroine cho Phớ vào ngày 06/6/2019. Căn cứ vào lời khai của Lù Văn P, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp đối với Lò Văn T nhưng không thu giữ được gì, đồng thời triệu tập lấy lời khai của Lò Văn T; nhưng T không thừa nhận việc Thân đã bán Heroine cho P, ngoài lời khai của P không có tài liệu nào khác chứng minh, nên cơ quan Cảnh sát điều tra chưa có cơ sở để kết luận việc Lò Văn T đã bán trái phép chất ma túy cho Lù Văn P.

Đi với người thanh niên P khai đã mua Heroine của P vào ngày 06/06/2019 do khi mua bán ma túy P không biết tên, tuổi, địa chỉ của người thanh niên đó nên cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra làm rõ. Bởi vậy HĐXX không xem xét.

[8] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng như sau: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,26 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 02 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Tịch thu 50.000đ là số tiền Phớ bán ma túy, để sung quỹ Nhà nước.

[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại đối với các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lù Văn P (Lù Văn P) phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lù Văn P (Lù Văn P) 30 (Ba mươi) tháng tù, được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ, thời gian bị cáo phải chấp hành hình phạt còn lại là 29 (Hai mươi chín) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,26 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 02 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; tịch thu 50.000đ là số tiền bị cáo bán ma túy để sung quỹ Nhà nước. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/7/2019 giữa Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lù Văn P (Lù Văn P) được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lù Văn P (Lù Văn P) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/8/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;