Bản án 67/2019/HSST ngày 02/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 67/2019/HSST NGÀY 02/07/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 7 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu - 24 Hoàng Văn Thụ, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2019/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Phương T (tên gọi khác: Rin) - sinh ngày 29 tháng 6 năm 1992 tại Tp Đà Nẵng. Nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: Tổ …., phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Số CMND: 201591537 cấp ngày 17 tháng 6 năm 2016; Nơi cấp: Công an thành phố Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lái xe. Con ông: Nguyễn Phương Q (sinh năm: 1963, còn sống) và bà Võ Thị N (sinh năm: 1967, còn sống). Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 2.

Tiền án: - Ngày 30/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 06 tháng tù về tội ‘‘Cướp giật tài sản'' theo khoản 1 Điều 136 BLHS.

- Ngày 08/8/2017 bị Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội ‘‘Trộm cắp tài sản'' theo khoản 1 Điều 138 BLHS.

Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

2.  Họ và tên: Ngô Thái H (tên gọi khác: Xỉn) - sinh ngày 20 tháng 10 năm 1995 tại Tp Đà Nẵng. Nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Số CMND: 201727410 cấp ngày 05 tháng 4 năm 2012; Nơi cấp: Công an thành phố Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Ngô Văn T (sinh năm: 1963, còn sống) và bà Thái Thị H (sinh năm: 1965, còn sống). Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2.

Tiền án: - Ngày 18/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 24 tháng tù về tội ‘‘Cố ý gây thương tích'' theo khoản 2 Điều 104 BLHS.

Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

3. Người bị hại:

- Ông Trương Nguyễn Thanh Hi – sinh năm 1997 ( có mặt )

Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

- Ông Trần Phi T1 – sinh năm 1996 ( có mặt )

Nơi cư trú: …… Núi Thành, quận H, thành phố Đà Nẵng.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Ôn Văn D – sinh năm 1984 ( vắng mặt )

Nơi cư trú: … Nguyễn H, quận H, Tp Đà Nẵng.

- Công ty cổ phần T – trụ sở: … đường số …, khu phố …, phường B, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Vũ T – sinh năm 1989 – Nơi cư trú: Chung cư S đường L, phường P, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh ( vắng mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 01/2019, Nguyễn Phương T đặt hàng mua một tai nghe Bluetooth hiệu Ipos trên mạng Tiki với tài khoản có tên “Lê Nin” qua số điện thoại 0326050860. Sau đó, T đưa điện thoại này cho Ngô Thái H mượn và nói với H “ khi nào có người giao hàng gọi đến thì chở T đi nhận hàng”.

Đến khoảng 16h00' ngày 12/02/2019, anh Trương Nguyễn Thanh Hi là nhân viên giao hàng T gọi vào số máy trên để hẹn giao hàng, Ngô Thái H nghe máy xong thì thông báo cho Nguyễn Phương T biết có người hẹn giao hàng, Nguyễn Phương T liền nãy sinh ý định chiếm đoạt tài sản, nên đã chuẩn bị một hộp tai nghe Blutooth rỗng, có đặc điểm gần giống với đơn hàng đã đặt với mục đích đánh tráo hai hộp tai nghe với nhau, rồi cất giấu vào người. Sau đó, Ngô Thái H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, màu trắng, đỏ đen, BKS: 59Y3 – 281.68 chở T đến điểm hẹn tại trước Kiệt số 572 đường 2/9 thuộc phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng để nhận hàng. Trên đường đi, T nói cho H nghe về ý định đánh tráo hàng đã đặt để chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Đến khoảng 16h30' cùng ngày, khi đến điểm hẹn, anh Hi đưa hộp tai nghe cho T kiểm tra, còn H đứng nói chuyện với T. Lợi dụng anh Hi mất cảnh giác, T tráo hộp tai nghe của anh Hi rồi cất giấu trong người và đưa hộp tai nghe chuẩn bị từ trước cho anh Hi, nói với anh Hi không nhận hàng nữa, anh Hi phát hiện tai nghe trả lại đã bị tráo, nên yêu cầu T trả lại hàng, nhưng T nói không tráo đổi, anh Hi yêu cầu kiểm tra người thì T không cho và lên xe để H chở đi. H biết T không trả lại hàng, nhưng vẫn điều khiển xe chở T đi, sau đó anh Hi đến Công an phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu trình báo sự việc. Sau khi chiếm đoạt được tài sản trên, T đưa cho H giữ. Sau đó, H mang đến số … Nguyễn H, thành phố Đà Nẵng bán cho Ôn Văn D với giá 3.400.000 đồng, H giữ lại 2.000.000 đồng tiêu xài cá nhân và đưa cho T 1.400.000 đồng.

Theo Kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐG ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hải Châu, kết luận: Giá trị tai nghe Airpods màu trắng chưa qua sử dụng bị chiếm đoạt là 4.399.000 (bốn triệu ba trăm chín mươi chín nghìn) đồng

Quá trình điều tra Nguyễn Phương T còn khai nhận: Trước đây, T1 có sử dụng một điện thoại Iphone 8 plus “hàng nhái”, vì muốn đổi sang loại chính hãng, nên ngày 01/02/2019, T lên trang mạng “Chợ tốt” thì thấy anh Trần Phi T1 có rao bán một điện thoại di động Iphone 8 plus của hãng Apple, T nãy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trên, nên hẹn gặp anh Trần Phi T1 để xem điện thoại. Đến khoảng 14h30' cùng ngày, T sử dụng xe môtô nhãn hiệu Exciter, màu trắng, đỏ, đen, BKS: 92H1 – 47247 (do anh Nguyễn Công T2; sinh năm: 1998, trú tại: Tổ …, Thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam làm chủ) đến Kiệt 521/07 Núi Thành, phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng để gặp anh T1. Tài yêu cầu anh T1 thoát Icloud trên máy, tháo sim, T kiểm tra xong thì tiếp tục yêu cầu kiểm tra dây sạc, anh T1 dẫn T vào nhà để lấy sạc kiểm tra, trong lúc đi vào T đã lén lút tráo chiếc điện thoại “nhái” của mình để lấy điện thoại của T1 bỏ vào túi xách của mình. T đưa điện thoại “nhái” cho anh T1 và nói có việc đi về và không mua máy nữa. Sau khi chiếm đoạt được điện thoại trên, T đem đến số … Nguyễn H, thành phố Đà Nẵng bán cho anh Ôn Văn D với giá 10.000.000 đồng. T sử dụng hết số tiền này vào mục đích cá nhân. Tài sản hiện không thu hồi được.

Theo Kết luận định giá tài sản số 34/KL-HĐĐG ngày 19/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hải Châu, kết luận: Giá trị còn lại của chiếc điện thoại Iphone 8 plus lock, màu trắng bị chiếm đoạt là 6.500.000 (sáu triệu năm trăm nghìn) đồng. (Bút lục: 168-169).

* Tang vật thu giữ :

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, màu trắng, đỏ đen, gắn BKS: 59Y3 – 281.68, số khung: 605688. (tạm giữ từ Tài).

- 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng. (tạm giữ từ T, đã trả lại cho Ôn Văn D).

- 01 (một) tai nghe AirPods, có số Seri WD5XH8TT (tạm giữ từ Ôn Văn D).

- 03 (ba) hình ảnh phản ánh phương tiện, đối tượng liên quan trong vụ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày 12/02/2019.

- 01 (một) điện thoại di động màu trắng, phía sau có chữ Iphone, hình táo khuyết, không rõ nguồn gốc xuất xứ. (tạm giữ từ Trần Phi T1).

- 01 đoạn video dài 7,54 phút. (tạm giữ từ Trần Phi T1).

- 01 (một) dây cáp sạc đựng trong hộp tai nghe Bluetooth, hình vuông, màu trắng. (tạm giữ từ Trương Nguyễn Thanh Hi)

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phương T và Ngô Thái H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bị hại là anh Trương Nguyễn Thanh Hi đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm.

Bị hại là anh Trần Phi T1 yêu cầu bồi thường số tiền 10.500.000đ (mười triệu năm trăm nghìn đồng) tương ứng với giá trị chiếc điện thoại vào thời điểm bị chiếm đoạt, ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKSHC ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Phương T về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản " theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự và Ngô Thái H về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản " theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử :

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm r, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Ngô Thái H từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Về trách nhiệm dân sự: người bị hại Trương Nguyễn Thanh Hi đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập xem xét. Chấp nhận yêu cầu của người bị hại Trần Phi T1 về việc yêu cầu bị cáo Nguyễn Phương T bồi thường số tiền 10.500.000đ (mười triệu năm trăm nghìn đồng) tương ứng với giá trị chiếc điện thoại vào thời điểm bị chiếm đoạt.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Phương T và Ngô Thái H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 16h30' ngày 12/02/2019, tại trước Kiệt số 572 đường 2/9 thuộc phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phương T và Ngô Thái H có thủ đoạn gian dối bằng hình thức giả đặt mua và vờ kiểm tra hộp tai nghe hiệu AirPods do anh Trương Nguyễn Thanh Hi giao, lợi dụng lúc anh Hi không chú ý, T đã tráo hộp tai nghe giả đã chuẩn bị từ trước, rồi cất vào người và đưa hộp tai nghe giả cho anh Hi, rồi lên xe do Ngô Thái H điều khiển tẩu thoát. Sau đó, H đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài cá nhân. Giá trị tài sản mà Nguyễn Phương T và Ngô Thái H đã chiếm đoạt là 4.399.000đ (bốn triệu ba trăm chín mươi chín nghìn đồng).

Ngoài ra, vào khoảng 14h30' ngày 01/02/2019, Kiệt 521/07 Núi Thành, phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phương T có thủ đoạn gian dối bằng hình thức đến xem điện thoại của anh Trần Phi T1 để mua, T giả vờ kiểm tra, rồi tráo đổi điện thoại Iphone 8 plus lock của anh T1 bằng điện thoại Iphone 8 plus “ hàng nhái”, rồi tẩu thoát. Sau khi chiếm đoạt được tài sản trên, T đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Giá trị tài sản mà Nguyễn Phương T chiếm đoạt là 6.500.000 (sáu triệu năm trăm nghìn) đồng.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm vào tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”quy định tại điều 174 Bộ luật hình sự;

Như vậy, cáo trạng số 66/CT-VKSHC ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện thấy rằng hành vi này không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội này của bị cáo.

[4]Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Đối với bị cáo Nguyễn Phương T:

Nguyễn Phương T là người có nhân thân rất xấu, ngoài lần phạm tội này, bị cáo đã hai lần bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản vào các năm 2015 và 2017 mà chưa được xóa án tích. Đặc biệt, bản án số 45/2017/HSST ngày 08 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ , thành phố Đà Nẵng đã đáp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với bị cáo. Do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm d khoản 2 điều 174 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã 02 lần chiếm đoạt tài sản, mỗi lần đều cấu thành tội phạm , do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, dù chưa bị phát hiện nhưng bị cáo đã tự thú nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Trần Phi T1. Ngoài ra thông qua gia đình bị cáo hoàn trả lại số tiền bị cáo có được do bán tài sản chiếm đoạt được. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- Đối với bị cáo Ngô Thái H:

Ngô Thái H là người có nhân thân xấu, ngoài lần phạm tội này, năm 2017 bị cáo đã một lần bị kết án về tội “ Cố ý gây thương tích” mà chưa được xóa án tích. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo đã chủ động giao nộp tiền thu lợi bất chính từ tài sản phạm tội mà có . Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- [5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo Nguyễn Phương T chiếm đoạt của anh Trần Phi T1 01 điện Iphone 8 plus trị giá 6.500.000đ. Anh Nguyễn Phi T1 yêu cầu bồi thường số tiền 10.500.000đ và bị cáo T đồng ý với mức bồi thường mà anh T1 yêu cầu nên Hội đồng xét xử xét thấy cần công nhận sự thỏa thuận bồi thường này của bị cáo Nguyễn Phương T và người bị hại Trần Phi T1.

Bị cáo Ngô Thái H thu lợi bất chính từ việc bán tài sản chiếm đoạt được là 2.000.000đ. Do đó cần buộc bị cáo phải nộp lại số tiền này để sung vào công quỹ. Hiện số tiền này được giữ tại Chi cục thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên lai thu số 0288 ngày 27 tháng 6 năm 2019.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ được trong quá trình điều tra gồm:

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, màu trắng, đỏ đen, gắn BKS: 59Y3 – 281.68, số khung: 605688. (tạm giữ từ T).

+ 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng. (tạm giữ từ T, đã trả lại cho Ôn Văn D).

+ 01 (một) tai nghe AirPods, có số Seri WD5XH8TT (tạm giữ từ Ôn Văn D).

+ 03 (ba) hình ảnh phản ánh phương tiện, đối tượng liên quan trong vụ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày 12/02/2019.

+ 01 (một) điện thoại di động màu trắng, phía sau có chữ Iphone, hình táo khuyết, không rõ nguồn gốc xuất xứ. (tạm giữ từ Trần Phi T1).

+ 01 đoạn video dài 7,54 phút. (tạm giữ từ Trần Phi T1).

+ 01 (một) dây cáp sạc đựng trong hộp tai nghe Bluetooth, hình vuông, màu trắng. (tạm giữ từ Trương Nguyễn Thanh Hi)

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, màu trắng, đỏ đen, gắn BKS: 59Y3 – 281.68, số khung: 605688. Đây là xe không rõ nguồn gốc, chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục làm rõ là có căn cứ

Đối với số tiền 1.400.000đ (một triệu bốn trăm nghìn) đồng tạm giữ từ T, đã trả lại cho Ôn Văn D và 01 (một) tai nghe AirPods, có số Seri WD5XH8TT tạm giữ từ Ôn Văn D đã được cơ quan điều tra trả lại cho người bị hại. Hội đồng xét xử thấy rằng việc xử lý vật chứng như vậy là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 (một) điện thoại di động màu trắng, phía sau có chữ Iphone, hình táo khuyết, không rõ nguồn gốc xuất xứ và 01 (một) dây cáp sạc đựng trong hộp tai nghe Bluetooth, hình vuông, màu trắng. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Hiện các vật chứng này đang được giữ tại Chi cục Thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 5 năm 2019.

Đối với 03 (ba) hình ảnh phản ánh phương tiện, đối tượng liên quan trong vụ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày 12/02/2019 và 01 đoạn video dài 7,54 phút. Đây là các chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội nên cần quy trữ tại hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí:

Áp dụng điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Phương T và Ngô Thái H mỗi bị cáo phải chịu là 200.000đ ( Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Buộc bị cáo Nguyễn Phương T phải chịu 525.000đ án phí dân sự sơ thẩm

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phương T và Ngô Thái H phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”.

Căn cứ điểm d khoản 2 điều 174; điểm r, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 36 ( ba mươi sáu ) tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13 tháng 02 năm 2019.

Căn cứ khoản 1 điều 174; điểm h, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Thái H 12 ( mươi hai) tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

2. Về dân sự :

- Căn cứ điều 48 Bộ luật hình sự;

- Căn cứ các điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự ;

Buộc bị cáo Nguyễn Phương T bồi thường cho anh Trần Phi T1 số tiền 10.500.000đ ( mười triệu năm trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, anh Trần Phi T1 có đơn yêu cầu thi hành án mà mà bị cáo Nguyễn Phương T không trả tiền thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Xử lý vật chứng

Căn cứ điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) điện thoại di động màu trắng, phía sau có chữ Iphone, hình táo khuyết, không rõ nguồn gốc xuất xứ và 01 (một) dây cáp sạc đựng trong hộp tai nghe Bluetooth, hình vuông, màu trắng. Hiện các vật chứng này đang được giữ tại Chi cục Thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 5 năm 2019.

Căn cứ điểm b khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 2.000.000đ thu lợi bất chính do bị cáo Ngô Thái H giao nộp. Hiện số tiền này được giữ tại Chi cục thi hành án quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên lai thu số 0288 ngày 27 tháng 6 năm 2019.

4. Về án phí:

Áp dụng điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Phương T và Ngô Thái H mỗi bị cáo phải chịu là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Buộc bị cáo Nguyễn Phương T phải chịu 525.000đ (năm trăm hai mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

426
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2019/HSST ngày 02/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:67/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;