Bản án 67/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 67/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 226/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1110/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 1387/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Như Quỳnh A, sinh năm 1988; nơi cư trú: Số 4/65 phố B, đường C, thị trấn D, huyện E, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc G, sinh năm 1989; nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã I, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Nhật Bản; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 10-12-2018 và các văn bản khác, nguyên đơn là chị Vũ Như Quỳnh A trình bày: Chị Quỳnh A và anh Nguyễn Ngọc G kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 25-5-2010. Sau khi kết hôn, chị Quỳnh A và anh G chung sống cùng bố mẹ anh G tại Thôn H, xã I, huyện K, thành phố Hải Phòng một thời gian ngắn thì chuyển về chung sống cùng bố mẹ chị Quỳnh A tại số 4/65 phố B, đường C, thị trấn D, huyện E, thành phố Hải Phòng. Đến tháng 5-2012, chị Quỳnh A và anh G cùng sang Đài Loan học tập, sinh sống. Quá trình chung sống tại Đài Loan giữa chị Quỳnh A và anh G thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do hai vợ chồng không tin tưởng nhau, anh G đã đuổi chị Quỳnh A ra khỏi nhà. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị Quỳnh A và anh G đã sống ly thân từ tháng 8-2013, không còn liên lạc và quan tâm đến nhau. Đến năm 2017, chị Quỳnh A về Việt Nam thì được biết anh G đã sang Nhật Bản du học. Anh G vẫn thường xuyên liên lạc với bố mẹ đẻ của anh G qua điện thoại nhưng do anh G thuộc diện cư trú bất hợp pháp nên gia đình anh G và chị Quỳnh A không biết địa chỉ cụ thể của anh G tại Nhật Bản. Nay nhận thấy tình cảm đối với anh G không còn, vợ chồng không cùng chung sống đã nhiều năm nay và không thể đoàn tụ nên chị Quỳnh A yêu cầu được ly hôn với anh G để ổn định cuộc sống.

Về quan hệ nuôi con chung: Quá trình chung sống, chị Quỳnh A và anh G có một con chung là Nguyễn Ngọc Anh L, sinh ngày 15-12-2010. Khi ly hôn chị Quỳnh A có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh G phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Chị Quỳnh A trình bày quá trình chung sống không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Chị Quỳnh A giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn; giữ nguyên lời trình bày tại bản tự khai và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Quỳnh A được ly hôn với anh G; chị Quỳnh A có nguyện vọng được nuôi con chung; không yêu cầu Tòa án giải quyết về tiền cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Mâu thuẫn giữa chị Quỳnh A và anh G đã sâu sắc, không còn khả năng khắc phục nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Quỳnh A; về quan hệ nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Anh L, sinh ngày 15-12-2010 cho chị Quỳnh A trực tiếp nuôi dưỡng; về tiền cấp dưỡng nuôi con chung và quan hệ tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện K và tại nơi anh G cư trú trước khi sang Nhật Bản; đồng thời tống đạt các văn bản đó cho gia đình anh G, gia đình anh G cam kết sẽ thông báo lại nội dung của các văn bản đó cho anh G. Tại phiên tòa, anh G vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do; việc vắng mặt của anh G thuộc trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh G theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về yêu cầu của đương sự:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Quỳnh A và anh G kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 25-5-2010 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị Quỳnh A và anh G chung sống cùng gia đình anh G một thời gian ngắn thì chuyển về sinh sống cùng gia đình chị Quỳnh A. Đến tháng 5-2012, chị Quỳnh A và anh G sang Đài Loan học tập, sinh sống. Quá trình chung sống tại Đài Loan, quan hệ giữa chị Quỳnh A và anh G phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân chính là do vợ chồng không còn tin tưởng nhau. Do mâu thuẫn không thể khắc phục nên chị Quỳnh A và anh G đã sống ly thân từ tháng 8-2013 cho đến nay. Năm 2015, anh G trở về Việt Nam và đến tháng 6-2015 thì tiếp tục sang Nhật Bản du học và ở lại đó cho đến nay. Bố mẹ đẻ của anh G cho biết, anh G thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại nhưng gia đình anh G không biết địa chỉ cụ thể của anh G tại Nhật Bản do anh G hiện đang cư trú bất hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy, nhiều năm nay anh G và chị Quỳnh A sống ly thân, không còn liên lạc, quan tâm đến nhau, cơ hội đoàn tụ không còn nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Quỳnh A được ly hôn với anh G - quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về quan hệ nuôi con chung: Quá trình chung sống chị Quỳnh A và anh G có một con chung là Nguyễn Ngọc Anh L, sinh ngày 15-12-2010. Hiện con chung đang được chị Quỳnh A trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn, nguyện vọng của chị Quỳnh A là được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị Quỳnh A về việc nuôi con chung là phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của con chung và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị Quỳnh A không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết. Anh G có quyền thăm nom con, chị Quỳnh A không được cản trở anh G thực hiện quyền này - Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Chị Quỳnh A trình bày quá trình chung sống không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm:

[6] Chị Quỳnh A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật - Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Như Quỳnh A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Như Quỳnh A được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc G.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Xử giao con chung là Nguyễn Ngọc Anh L, sinh ngày 15-12-2010 cho chị Vũ Như Quỳnh A được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị Vũ Như Quỳnh A không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Anh Nguyễn Ngọc G có quyền thăm nom con, chị Vũ Như Quỳnh A không được cản trở anh Nguyễn Ngọc G thực hiện quyền này. Anh Nguyễn Ngọc G không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về quan hệ tài sản chung: Chị Vũ Như Quỳnh A xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Vũ Như Quỳnh A phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí , lệ phí Toà án số 0010946 ngày 13-12-2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Như Quỳnh A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, chị Vũ Như Quỳnh A có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật, anh Nguyễn Ngọc G có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
  • Tên bản án:
    Bản án 67/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về ly hôn
  • Số hiệu:
    67/2019/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    23/04/2019
  • Từ khóa:
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về ly hôn

Số hiệu:67/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;