Bản án 67/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 67/2017/HS-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện MĐ, Thành phố HN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2017/HSST ngày 07/9/2017 đối với bị cáo:

Bùi Thị T sinh năm 1957 tại MĐ - HN; nơi cư trú: Thôn ĐN, xã AM, huyện MĐ, Thành phố HN; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 0 7/12; con ông Bùi Văn Mích và bà Phạm Thị Hồng; chồng là Nguyễn Hữu Phú, có 04 con lớn sinh năm 1977, nhỏ sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23/6/2017 đến ngày 29/6/2017, thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tại ngoại. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Phùng Văn T sinh năm 1977. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn Q, xã TL, huyện MĐ, Thành phố HN.

+ Anh Nguyễn Duy Tsinh năm 1987. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn 06, xã Phù Lưu Tế, huyện MĐ, Thành phố HN.

NHẬN THẤY

Bị cáo Bùi Thị T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện MĐ, Thành phố HN truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17 giờ 25 phút ngày 23/6/2017, Phùng Văn T và Nguyễn Duy Tcùng đến quán tạp hóa của gia đình Bùi Thị Tở thôn Đoan Nữ, xã An Mỹ để đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề. Bùi Thị T đồng ý và bán cho Phùng Văn T 100 điểm lô số 87 (22.500 đồng/ 01 điểm); 20.000 đồng số đề 29; 50.000 đồng số đề 97 với tổng số tiền là 2.320.000 (Hai triệu ba trăm hai mươi nghìn) đồng. Bùi Thị Tđã nhận tiền và ghi cáp lô, đề xong cho Phùng Văn T. Sau đó bán cho Nguyễn Duy T130 điểm lô số 29 (22.500 đồng/ 01 điểm); 50.000 đồng số đề 29 với tổng số tiền là 2.975.000 (Hai triệu chín trăm bẩy mươi lăm nghìn) đồng. Cứ 10.000 đồng người chơi số đề bỏ ra, Bùi Thị Tthưởng thêm 2.000 đồng. Bùi Thị Tđã nhân tiền và chuẩn bị ghi cáp cho Nguyễn Duy Tthì bị bắt giữ.

Vật chứng thu giữ: 01 tờ cáp ghi số lô, số đề của Bùi Thị Tbán cho Phùng Văn T; 01 tờgiấy A4 ghi số lô, số đề của Bùi Thị T đã bán được trong ngày 23/6/2017 và 5.180.000 (Năm triệu một trăm tám mươi nghìn) đồng. Ngày 25/7/2017, Bùi Thị Ttự nguyện nộp 115.000 (Một trăm mười lăm nghìn) đồng tiền bán số lô, số đề ngày 23/6/2017.

Qua đấu tranh làm rõ: Trong ngày 23/6/2017, ngoài số lô, số đề bán cho Phùng Văn T, Nguyễn Duy Tthì Bùi Thị Tcòn bán số lô, số đề cho một số người khác không quen biết, cụ thể khoảng 65 số đề, 57 điểm lô và 5 số lô xiên ba và xiên hai được tổng số tiền là 3.112.900 đồng được thể hiện qua số liệu ghi trong tờ giấy A4 ngày 23/6/2017.

Vật chứng của vụ án gồm:

Như vậy, số tiền Bùi Thị Tđã bán số lô, số đề trong ngày được xác định gồm: 2.320.000 đồng bán cho Phùng Văn T; 2.975.000 đồng bán cho Nguyễn Duy T và 3.112.900 đồng bán cho những người không quen biết. Tổng cộng là 8.407.900 đồng, trong đó Công an thu giữ 5.180.000 đồng; Bùi Thị T tự nguyện giao nộp 115.000 đồng ngày 25/7/2017, còn lại 3.112.900 đồng bị cáo đã chi tiêu hết. Ngoài ra, Bùi Thị Tcòn khai nhận trước đó hai ngày đã bán số lô, số đề nhưng bán cho ai, ở đâu, bao nhiêu tiền không xác định được.

Bùi Thị T khai: Do muốn có tiền để chi tiêu cá nhân nên đã lợi dụng vào kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng hàng ngày để đánh bạc bằng hình thức ghi số đề, số lô nhằm thu lợi bất chính. Việc đánh bạc bằng hình thức mua bán số đề, Bùi Thị Tquy định nếu hai số tự nhiên của người mua trùng với hai số cuối giải đặc biệt của kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày thì người mua sẽ được trả số tiền gấp 70 lần so với số tiền mua đề. Ngược lại thì người mua sẽ thua và người bán sẽ hưởng số tiền người mua đã trả cho người bán. Đối với hình thức đánh bạc mua bán số lô, nếu hai số tự nhiên của người mua trùng với hai số cuối của tám giải của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng cùng ngày thì người mua sẽ được trả số tiền gấp 80.000 đồng/01 điểm lô (Cứ 01 điểm lô người mua phải trả số tiền 22.500 đồng). Ngược lại thì người mua sẽ thua và người bán sẽ hưởng số tiền người mua đã trả cho người bán. Bùi Thị Tcũng khai nhận: Ngoài những lần bán số lô, số đề đã khai nhận thì trước đó không bán thêm bất cứ số lô, số đề cho ai khác.

Đối với Phùng Văn T, Nguyễn Duy T có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số đề, số lô nhưng số tiền mà hai đối tượng này sử dụng vào việc đánh bạc chưa đủ yếu tố định lượng cấu thành tội phạm đồng thời đều chưa có tiền án, tiền sự về các tội Đánh bạc, Gá bạc quy định tại Điều 248, Điều 249 Bộ luật Hình sự nên Công an huyện Mỹ Đức đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phùng Văn T, Nguyễn Duy T là phù hợp.

Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 06/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MĐ, Thành phố HN truy tố bị cáo Bùi Thị Tvề tội “Đánh bạc” theo khoản 01 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MĐ, Thành phố HN vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 01 Điều 248; điểm h, p khoản 01, khoản 02 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Bùi Thị Ttừ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng được trừ thời gian bị tạm giữ ừ ngày 23/6/2017 đến ngày 29/6/2017.

Không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thị Tkhai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 23/6/2017 Bùi Thị Tđã thực hiện hành vi được thua bằng tiền dưới hình thức bán số đề, số lô cho Phùng Văn T, Nguyễn Duy Tvà một số người không xác định được họ tên, địa chỉ với tổng số tiền bị cáo sử dụng đánh bạc là 8.407.900 đồng, trong đó bị thu giữ là 5.180.000 đồng; bị cáo tự nguyện giao nộp 115.000 đồng còn lại 3.112.900 đồng bị cáo chi tiêu hết.

Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Bùi Thị Tđã cấu thành tội “Đánh bạc” theo Điều 248 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội không những xâm phạm trực tiếp đến trật tự, an toàn công cộng mà còn ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới và là nguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội khác. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 01 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét thấy bị cáo Bùi Thị Tcó nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện khắc phục hậu quả và có chồng là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p, h khoản 01, khoản 02 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; có khả năng tự cải tạo; việc tham gia đánh bạc là nhất thời nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung đồng thời đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Về thu lợi bất chính:

Bị cáo Thành bán số đề, số lô cho một số đối tượng khác và hưởng lợi số tiền 3.112.900 đồng. Xét thấy đây là tiền thu lợi bất chính nên cần buộc bị cáo nộp lại để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

- 01 tờ cáp ghi số lô, số đề của Bùi Thị Tbán cho Phùng Văn T và 01 tờ giấy A4 ghi số lô, số đề của Bùi Thị Tđã bán được trong ngày 23/6/2017: Xét thấy, các vật chứng này có giá trị như một tài liệu tố tụng nên Hội đồng xét xử quyết định bảo lưu trong hồ sơ vụ án.

- Số tiền 5.295.000 đồng trong đó thu giữ trực tiếp là 5.180.000 đồng; bị cáo tự nguyện giao nộp 115.000 đồng: Xét thấy đây là số tiền phạm tội mà có cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Tphạm tội “Đánh bạc”.

2. Áp dụng: Khoản 01 Điều 248; điểm b, h, p khoản 01, khoản 02 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bùi Thị T09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao Bùi Thị Tcho UBND xã An Mỹ, huyện MĐ, Thành phố HN giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Miễn áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Bùi Thị T.

3. Về thu lợi bất chính:

Buộc bị cáo Bùi Thị T nộp lại 3.112.900 đồng tiền hưởng lợi bất chính để sung quỹ nhà nước.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 01 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 5.295.000 (Năm triệu hai trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.

(Tình trạng vật chứng có đặc điểm như giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 27/9/2017 của Công an huyện Mỹ Đức)

5. Về án phí:Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc: Bị cáo Bùi Thị T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 231 và 234 Bộ luật Tố tụng hình sự: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

(Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:67/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;