TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 67/2017/HSST NGÀY 21/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21tháng 11 năm 2017 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2017/HSST ngày 05/10/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Hồng S; Sinh năm: 1997; Tại xã N, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; Trú tại: Thôn 6, xã N, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q và bà Lê Thị H; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất.
Tiền án, tiền sự: Không
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2017 đến ngày 07/6/2017 chuyển tạm giam cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1985
Trú tại: Đội 3, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 10 giờ 35 phút, ngày 29 tháng 5 năm 2017, tổ công tác phòng, chống tội phạm ma túy Công an huyện Hà Trung và Công an xã Hà Phong làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên đường quốc lộ 217 thuộc địa bàn thôn Trang Các, xã Hà Phong phát hiện 02 thanh niên tên là Nguyễn Hồng S và Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 ở xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa đều là đối tượng nghiện ma túy đang đứng gần nhau cạnh xưởng gỗ nhà anh D. Thấy có biểu hiện nghi vấn tổ công tác đã đến kiểm tra người của hai đối tượng S và T. Quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện và thu giữ ở tay trái của S đang cầm 01 gói bọc bên ngoài bằng nilon và 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá mỗi tờ 100.000 đồng, thu ở tay phải của Nguyễn Hồng S đang cầm 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng giấy nilon màu trắng. Tổ công tác kiểm tra 02 gói nhỏ nêu trên bên trong mỗi gói đều là giấy trắng, trong cùng đều chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn nghi là ma túy. Kiểm tra trong người của Nguyễn Hồng S thu giữ một điện thoại NOKIA, vỏ màu đen. Kiểm tra người của Nguyễn Văn T, Công an thu giữ 01 điện thoại nhãn hiệu VIETTEL vỏ màu đỏ đen, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì thêm. Kiểm tra khu vực xung quanh nơi S và T đứng, tổ công tác phát hiện và thu giữ ở đống gỗ cạnh chỗ Nguyễn Hồng S đứng 01 túi xách màu đen, bên trong túi xách có 01 túi nilon màu trắng có viền màu đỏ, bên trong túi nilon này có chứa 28 (hai mươi tám) gói nhỏ, mỗi gói bên ngoài đều được bọc nilon màu trắng, trong mỗi gói là lớp giấy trắng trong cùng đều chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục nghi là ma túy. Ngay tại chỗ Nguyễn Văn T khai nhận vừa đưa 200.000 đồng cho Nguyễn Hồng S để mua ma túy sử dụng. S chưa kịp đưa ma túy cho T thì bị Công an bắt giữ. Nguyễn Hồng S khai vừa cầm của T số tiền 200.000 đồng là tiền T dùng mua ma túy, S chưa kịp đưa ma túy cho T thì bị Công an bắt giữ. Đồng thời S cũng khai nhận ngay là 02 gói nhỏ thu giữ ở tay của S và 28 gói nhỏ thu ở trong túi xách trên đống gỗ đều là Hêrôin của S chia nhỏ, cất giấu nhằm mục đích bán cho các đối tượng nghiện ma túy để kiếm lời. Công an đã T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và tạm giữ đồ vật của các đối tượng S, T.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Nguyễn Hồng S Công an không phát hiện và thu giữ gì thêm.
Tại bản kết luận giám định số 1315 /PC54-MT ngày 31/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì niêm phong ký hiệu A1 vụ Nguyễn Hồng S gửi giám định có tổng trọng lượng là 0,368g (không phẩy ba sáu tám gam), có Heroin. Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì niêm phong ký hiệu A2 vụ Nguyễn Hồng S gửi giám định có tổng trọng lượng là 8,996g (Tám phẩy chín chín sáu gam), có Heroin. Tổng mẫu vật gửi giám định có trọng lượng: 9,364g (chín phẩy ba sáu tư gam), có Heroin. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.
Quá trình điều tra Nguyễn Hồng S khai nhận: Khoảng 8 giờ 00 ngày 29/5/2017, S đi xe Bus từ đường 217 sang xã Đ, huyện L mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi 01 túi ma túy giá 1.750.000 đồng. Sau đó, S đi về nghĩa trang thị trấn gần đường 217, S chia túi ma túy thành 30 phần, mỗi phần đều được gói bằng giấy màu trắng, bên ngoài bọc bằng nilon màu trắng có viền màu đỏ. Chia xong, S bỏ 30 gói ma túy vào túi xách màu đen của S. Ngay sau đó T gọi điện thoại cho S hỏi mua ma túy và được S đồng ý, S bảo T đứng chờ ở cạnh đường quốc lộ 217. Sau đó, S đi bộ đến gần chợ ở thôn Trang Các, xã Hà phong và đứng trong một ngõ nhỏ mở túi xách đang đựng ma túy lấy ra 02 gói, 01 gói cầm ở tay trái và 01 gói cầm ở tay phải với mục đích để bán cho đối tượng nghiện đến hỏi mua. Còn lại 28 gói S để trong túi xách của mình và để ở đống gỗ cạnh chỗ S đang đứng. Sau đó, S gọi điện cho T thì thấy T đang đứng bên đường đối diện với mình. S tắt điện thoại và vẫy T sang. Khi gặp nhau S hỏi T lấy bao nhiêu thì T không nói gì mà đưa cho S 200.000 đồng bằng 02 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 100.000 đồng. S cầm tiền ở tay trái rồi bảo T quay ra chỗ khác, mục đích để S cắt bớt gói ma túy trước khi ném xuống đất cho T lấy. S chưa kịp đưa ma túy cho T thì bị lực lượng Công an bắt giữ. Công an thu giữ ở tay trái của S 01 gói ma túy, ở tay phải 01 gói ma túy và 200.000 đồng, thu ở đống gỗ gần chỗ S đứng 01 túi màu đen bên trong có 28 gói ma túy và 01 điện thoại NOKIA, S dùng để liên lạc bán ma túy.
Nguyễn Văn T khai khoảng 8 giờ ngày 29/5/2017, T đi xe bus từ xã T, huyện H, Thanh Hóa lên thị trấn Hà Trung mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Đến đầu đường 217, T gọi điện thoại cho S theo số điện thoại của bạn nghiện ma túy. Khi T gọi điện thì S nghe máy, T bảo bán cho T 200.000 đồng tiền ma túy. S đồng ý và bảo T chờ ở chợ thuộc thôn Trang Các, xã Hà Phong. T đi đến chợ, S gọi điện thoại cho T, T bắt máy nhưng S không nói gì. Sau đó, T thấy S đứng trong ngõ nhỏ đối diện bên đường vẫy tay gọi T sang. S hỏi T lấy mấy (T hiểu ý S hỏi mua bao nhiêu ma túy), T không trả lời mà lấy từ trong người ra 02 tờ tiền mệnh giá mỗi tờ là 100.000 đồng, tổng là 200.000 đồng đưa cho S. S cầm tiền ở tay trái rồi bảo T quay ra chỗ khác. Khi T quay ra chỗ khác thì Công an đến bắt giữ T và S. Kiểm tra người T thu giữ 01 điện thoại VIETTEL màu đỏ đen T dùng để liên lạc với S để hỏi mua ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 2192/MT-PC54 ngày 07/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì ký hiệu “A1 Vụ Nguyễn Hồng S” gửi giám định có hàm lượng Hêrôin là 40%. Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì ký hiệu “A2 Vụ Nguyễn Hồng S” gửi giám định có hàm lượng Hêrôin là 40,86%.
Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 04/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h, khoản 2, Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm h, khoản 2, Điều 194; Điều 33; điểm p, khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo 7 năm tù.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định đủ cơ sở khẳng định: Ngày 29.5.2017, tổ công tác phòng chống tội phạm ma túy Công an huyện Hà Trung cùng Công an xã Hà Phong kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Hồng S tại khu vực đường 217 (gần chợ ở thôn Trang Các, xã Hà Phong, huyện Hà Trung) thu giữ 30 gói với trọng lượng: 9,364g, có Hêrôin. Trong đó hai gói bị cáo cầm ở tay khi thu giữ có trọng lượng 0,368gam, với hàm lượng Hêrôin nguyên chất là 40%, tương đương 0,147gam; 28 gói bị cáo để trong túi xách có trọng lượng 8,996gam, với hàm lượng Hêrôin nguyên chất là 40,86%, tương đương 3,675gam. Tổng khối lượng Hêrôin tính theo hàm lượng tương đương 3,822gam, bị cáo tàng trữ nhằm mục đích để bán. Với khối lượng Hêrôin trên, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1, Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là loại chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm p, khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Đối với người thanh niên khoảng 30 tuổi mà S khai đã bán ma tuý cho S, quá trình điều tra không xác định được tên, địa chỉ nên không có cơ sở để xử lý đối tượng trên. Nguyễn Văn T là đối tượng nghiện ma tuý đã có hành vi mua trái phép ma tuý nhằm mục đích sử dụng. Nhưng khi thực hiện giao dịch T mới đưa tiền cho S và S chưa đưa ma túy cho T nên không xác định được định lượng ma tuý T mua để sử dụng nên không có căn cứ để xử lý về hình sự. Tuy nhiên, Cơ quan công an huyện Hà Trung không xử lý hành chính đối với T là thiếu sót. Đề nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung tiến hành xử lý hành chính đối Nguyễn Văn T.
Về vật chứng: Số ma túy cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên phải tịch thu tiêu huỷ. Chiếc túi xách là công cụ phạm tội nhưng không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy. Hai chiếc điện thoại thuộc sở hữu của bị cáo và của Nguyễn Văn T là phương tiện để bị cáo và Nguyễn Văn T liên lạc mua ma túy nên phải tịch thu sung quỹ nhà nước. Số tiền 200.000 đồng là do phạm tội mà có nên phải tịch thu sung quỹ nhà nước.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồng S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”
Áp dụng khoản 1, Điều 194; Điều 33; điểm p, khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng S 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 29/5/2017.
Căn cứ khoản 2, Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ: Toàn bộ số ma túy là Hêrôin còn lại sau giám định, tất cả được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong (Đặc điểm của phong bì niêm phong theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Tòa án nhân dân huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 10/11/2017); 01(một) chiếc túi xách (Đặc điểm của túi xách theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 09/10/2017).
Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01(một) chiếc điện thoại di động NOKIA, vỏ màu đen, đã qua sử dụng; 01(một) chiếc điện thoại di động VIETTEL, vỏ màu đen, đã qua sử dụng; số tiền 200.000 đồng.
Căn cứ theo Điều 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Nguyễn Hồng S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về