TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 67/2017/HSST NGÀY 12/12/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2017/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2017/QĐXXST- HS ngày 30/11/2017 đối với bị cáo:
Đỗ Văn S, sinh năm 1954 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; trình độ văn hoá: 06/10; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Đỗ Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ là Trần Thị L và 02 con; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Song áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Những người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng:
1. Anh Trần Văn H, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn A1, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
2. Anh Trần Văn C, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn A2, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
3. Anh Trần Văn H1, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn A3, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
4. Anh Trần Văn V, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ A4, thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
5. Anh Phạm Văn A1, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn A5, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
6. Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn A6, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
7. Anh Vũ Văn L, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn A7, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
8. Anh Trần Thế A2, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn A8, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
9. Anh Trần Văn Q, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn A9, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
10. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn A10, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
11. Anh Đoàn Văn H3, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn A11, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
12. Ông Nguyễn Văn L2, sinh năm 1963; nơi cư trú: Thôn A12, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
13. Ông Đinh Văn Đ1, sinh năm 1962; nơi cư trú: Thôn A13, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
14. Ông Lê Văn B, sinh năm 1967; nơi cư trú: Thôn A14, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
15. Ông Trần Văn D, sinh năm 1961; nơi cư trú: Thôn A15, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
16. Anh Nguyễn Minh K, sinh năm 1971; nơi cư trú: Thôn A16, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
17.Ông Trần Xuân B1, sinh năm 1959;nơi cư trú: Thôn A17, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
18.Anh Trần Văn N, sinh năm 1980; có mặt; nơi cư trú: Thôn A18, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 13/01/2017, Trần Xuân B1tổ chức tiệc mừng Tân gia tại thôn A17, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông mời mọi người tới dự tiệc. Sau khi dự tiệc xong thì Đỗ Văn S cùng một số người khác vào nhà B1 đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài liêng và bài phỏm. Tất cả chia làm hai chiếu bạc rồi cùng tham gia đánh bạc. Tại chiếu bạc đánh bài liêng gồm có: Trần Văn Q, Trần Văn H1, Trần Văn C, Trần Văn H, Đoàn Văn H3, Trần Văn D, Lê Văn B, Nguyễn Minh K, Trần Xuân B1, Trần Văn N, Nguyễn Văn T, Trần Văn V, Vũ Văn L, Trần Thế A2 và Phạm Văn Đ. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc tại chiếu bạc này là 8.555.000 đồng.
Tại chiếu bạc còn lại đánh bài phỏm được thua bằng tiền gồm Đinh Văn Đ1, Nguyễn Văn L2, Trần Văn V và Đỗ Văn S, các đối tượng đánh bạc được khoảng 15-20 phút thì Trần Văn V nghỉ chơi. Sau khi V nghỉ chơi thì Phạm Văn A1 vào chơi thay V (V nghỉ chơi đi ra ngoài sau này quay lại thì tham gia chơi bài Liêng được thua bằng tiền). Sau khoảng 20 đến 30 phút thì Đỗ Văn S nghỉ, các đối tượng Đ1, L2, A1 tiếp tục chơi thêm thời gian thì Đoàn Văn H3 nghỉ chơi tại chiếu bạc đánh bài liêng sang tham gia chơi bài phỏm được thua bằng tiền cùng với Đ1, L2, A1.
Cách thức chơi bài phỏm được quy ước như sau: Tất cả sử dụng bộ bài tây 52 lá gồm: 04 (bốn) loại bài có các chất cơ, rô, chuồn, bích, mỗi chất bài có 13 lá bài từ quân 2 đến quân xì (A), chia cho 04 người chơi, người cầm cái phát bài và được phát 10 quân bài, 03 người còn lại được phát mỗi người 09 quân bài. Người chia bài là người đánh lá bài đầu tiên sang cho người chơi ngồi kế bên, nếu người này thấy lá bài vừa được đánh ra mà kết hợp với các lá bài trên tay tạo thành ít nhất 03 lá bài cùng chữ hoặc số là phỏm, được gọi là “ăn”, nếu không “ăn” thì bốc lá bài giữa nọc lên. Người vừa ăn, đánh 01 lá bài khác ra cho người chơi kế tiếp theo vòng chơi, cứ thế quay vòng cho tới khi người nào có 09 lá bài trên tay tạo thành “phỏm” thì người đó hạ bài xuống gọi là “ù”; nếu không có người nào “ù” thì tính thắng thua sau khi hạ “phỏm”, người có điểm thấp nhất sẽ thắng, người có điểm cao nhất thì về chót. Cách tính điểm là cộng tổng điểm các lá bài trên tay theo số và chữ. Trong đó quân xì (A) được tính là 01 điểm, quân J được tính là 11 điểm, quân Q được tính là 12 điểm, quân K được tính là 13 điểm. Người nào đánh bị người ngồi kế bên ăn 01 quân thì mất 10.000 đồng; ăn quân bài cuối cùng gọi là ăn “chốt hạ” thì phải trả 20.000 đồng; bị ăn 03 quân bài thì phải đền ù. Người nào “ù” thì mỗi người chơi còn lại phải trả số tiền 50.000 đồng/người; người ít điểm nhất thì về nhất, người thứ 2 phải trả cho người về nhất số tiền 10.000 đồng; người về thứ 3 trả cho người về thứ nhất số tiền 20.000 đồng và người về chót phải trả cho người về nhất số tiền 30.000 đồng; người nào không có “phỏm” thì gọi là cháy, phải trả số tiền 40.000 đồng.
Trước khi đánh, Đinh Văn Đ1khai sử dụng số tiền 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thì thua và khi bị bắt quả tang thì còn số tiền 140.000 đồng; Nguyễn Văn L2 khai sử dụng số tiền 4.500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thì thắng và khi bị bắt quả tang thì có số tiền 5.040.000 đồng; Trần Văn V khai sử dụng số tiền khoảng 300.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thì thua và khi nghỉ chơi bài phỏm thì còn 230.000 đồng (số tiền này sau đó V dùng để đánh bài liêng được thua bằng tiền); Đỗ Văn S khai sử dụng số tiền 630.000 đồng, sau khi nghỉ thì S còn lại số tiền 200.000 đồng; Phạm Văn A1 khai sử dụng 320.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thì thắng và khi bị bắt quả tang thì có số tiền 500.000 đồng; Đoàn Văn H3 khai sử dụng 1.100.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong quá trình đánh bạc thì thắng và khi bị bắt quả tang thì có 1.260.000 đồng. Tất cả, đánh đến 22 giờ 40 phút thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Tổng số tiền Đinh Văn Đ1, Nguyễn Văn L2, Trần Văn V, Đỗ Văn S, Phạm Văn A1, Đoàn Văn H3 sử dụng vào mục đích đánh bạc là 7.350.000 đồng. Khi bắt quả tang, thu giữ số tiền 6.920.000 đồng (do V nghỉ mang theo số tiền 230.000 đồng sang đánh bài liêng, S nghỉ mang về số tiền 200.000 đồng). Như vậy trước khi S nghỉ, H3 vào thay S thì số tiền Đỗ Văn S cùng với Đ1, L2, V và A1 sử dụng để đánh bạc là 6.250.000 đồng (trừ đi số tiền 1.100.000 đồng của Đoàn Văn H3, do H3 vào đánh bạc sau khi S đã nghỉ).
Sau khi phạm tội, Đỗ Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Đắk Song khởi tố, sau đó bỏ trốn. Đến ngày 21/9/2017 Đỗ Văn S đến cơ quan Công an huyện Đắk Song đầu thú, đồng thời giao nộp số tiền 200.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 73/CTr-VKS ngày 22/11/2017,Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố Đỗ Văn S về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đỗ Văn S về tội “Đánh bạc”. Sau khi xem xét, đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Đánh bạc”; áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn S từ 06 đến 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 16 tháng.
Đối với hành vi đánh bạc của Trần Văn H, Trần Văn C, Trần Văn H1, Trần Văn V, Phạm Văn Đ, Vũ Văn L, Trần Thế A2, Trần Văn Q, Nguyễn Văn T, Lê Văn B, Trần Văn D, Nguyễn Minh K, Đoàn Văn H3,Trần Văn V, Phạm Văn A1, Đinh Văn Đ1, Nguyễn Văn L2 đã được Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xét xử và xử phạt tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2017/HS-ST ngày 27/10/2017.
Việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; căn cứ điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ Luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) bị cáo Sảnh sử dụng vào việc phạm tội.
Bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Khoảng 19 giờ 00 phút đến khoảng 22 giờ 40 phút, ngày 13/01/2017, tại nhà Trần Xuân B1, thuộc thôn A17, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, gồm có Nguyễn Văn L2, Trần Văn V, Đinh Văn Đ1, Đỗ Văn S, Phạm Văn A1 và Đoàn Văn H3 đã đánh bạc bằng hình thức đánh bài phỏm được thua bằng tiền bị Công an huyện Đắk Song bắt quả tang, thu giữ tang vật gồm: 01 (một) bộ bài tây 52 lá và tổng số tiền 6.920.000 đồng.Trong đó, số tiền Đỗ Văn S và Nguyễn Văn L2, Trần Văn V, Đinh Văn Đ1 và Phạm Văn A1 sử dụng đánh bạc là 6.250.000 đồng (trong đó bị cáo S sử dụng số tiền tham gia đánh bạc là 630.000đ). Như vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự.
Tại Khoản 1 Diều 248 BLHS quy định:
“1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2…”
Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Áp dụng quy định có lợi cho bị cáo HĐXX nhận thấy việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Trong khi các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn đánh bạc ngày càng diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, người thân nói riêng và xã hội nói chung. Đây cũng là nguyên nhân, tiền đề gây ra các tội phạm khác hoặc làm giảm sút kinh tế gia đình và tác động xấu đến xã hội . Bị cáo đều nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức không tôn trọng pháp luật, muốn được lợi về tài sản một cách bất hợp pháp nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một hình phạt đủ nghiêm để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị truy nã, nhưng đã ra đầu thú, hiện nay bị cáo đã chấp hành tốt, cư trú rõ ràng, ổn định, số tiền bị cáo tham gia đánh bạc ít và nghỉ trước so với các đối tượng khác nên Hội đồng xét xử xét thấy chưa cần thiết phải xử phạt tù có thời hạn mà chỉ cần xử phạt tù có điều kiện cho bị cáo hưởng án treo theo Điều 60 BLHS giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường nơi bị cáo cư trú và gia đình phối hợp giáo dục cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Xét thấy bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Đối với hành vi đánh bạc của Trần Văn H, Trần Văn C, Trần Văn H1, Trần Văn V, Phạm Văn Đ, Vũ Văn L, Trần Thế A2, Trần Văn Q, Nguyễn Văn T, Lê Văn B, Trần Văn D, Nguyễn Minh K, Đoàn Văn H3,Trần Văn V, Phạm Văn A1, Đinh Văn Đ1, Nguyễn Văn L2 đã được Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xét xử và xử phạt tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2017/HS-ST ngày 27/10/2017.
[7] Việc xử lý vật chứng: Đã được giải quyết tại bản án hình sự sơ thẩm số: 52/2017/HSST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song nên không xem xét.
Đối với số tiền 200.000 đồng Đỗ Văn S đã sử dụng vào mục đích đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản 1 khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn S 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 12/12/2017.
Giao bị cáo Đỗ Văn S cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông nơi bị cáo cư trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Đỗ Văn S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2.Việc xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo giấy Uỷ nhiệm chi chuyển khoản vào tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án huyện Đắk Song ngày 08/12/2017.
Vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại Bản án số52/2017/HS-ST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song.
3.Về án phí: Căn cứ Điều 98, Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Văn S phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
4.Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 67/2017/HSST ngày 12/12/2017 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 67/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Nông - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về